April 26, 2024, 7:46 am

Sức sống mới từ vùng đất bị hủy diệt*

Vùng đất từng bị hủy diệt trong hai cuộc chiến tranh khốc liệt vừa qua nay là huyện A Lưới ở phía Tây tỉnh Thừa Thiên Huế, có hai địa danh A Sầu (A So) và A Bia – còn có tên là “Đồi Thịt Băm”, nơi xảy ra trận huyết chiến 5/1969 nổi tiếng cả thế giới.

Có lẽ đây cũng là địa phương có nhiều gia đình mang họ Hồ nhất trong nước. Tác giả cuốn sách là một nhân vật khá đặc biệt – một bà lão 88 tuổi, người có cuộc đời khác biệt và sống “xa cách” với đồng bào A Lưới về nhiều phương diện. Có thể nói như vậy vì bà từng là một tiểu thư tham gia hoạt động ủng hộ cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp khi đang là nữ sinh trường Đồng Khánh (Hà Nội) rồi du học Pháp, trở về nước công tác truyền thông nhiều năm cho Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam. Do giỏi ngoại ngữ, quen giao tiếp với nhiều nhà báo quốc tế, nên hai tổ chức CEDRATE (Nghiên cứu và hành động chống những chấn thương hồi chiến tranh) do các trí thức Pháp tổ chức, và CGFED (Nghiên cứu về giới, gia đình và môi trường trong phát triển ở Hà Nội) khi quyết định vào A Lưới nghiên cứu đã mời bà làm phiên dịch, liên hệ với bà con địa phương, bắt đầu từ năm 2002. Bà “dám” nhận công việc khó khăn này cũng vì từng công tác ngành lâm nghiệp, rồi dạy môn hóa – làm chủ nhiệm lớp có con em ở Trường Sơn và Tây Nguyên ra Bắc học những năm từ 1962-1970, nên rất quan tâm đến cuộc sống bà con dân tộc ít người…

Ban đầu là vậy, nhưng bà không ngờ mình lại gắn bó với vùng đất này như vậy. Năm ngoái, do nghĩ mình đã già yếu, không còn đủ sức hoàn thiện bản thảo, bà đã ủy quyền cho tôi công bố tư liệu về Chuyện người họ Hồ mang “tiếng nói” của Bác Hồ lên A Lưới hơn sáu thập kỷ trước (Tạp chí Nhà văn & cuộc sống, số 10, tháng 9-10/2022). Vậy mà thật bất ngờ, tôi vừa gặp lại bà lão 88 tuổi này tại Huế, sau mấy ngày bà từ Thành phố Hồ Chí Minh trở lại A Lưới thăm những nhân vật mà bà đã gặp phỏng vấn, tìm hiểu đời sống của những nạn nhân chất độc da cam trong 7 lần bà lên A Lưới trước đây, đồng thời để thấy tận mắt những thay đổi của A Lưới hôm nay. Người “vệ sĩ” tháp tùng bà lên A Lưới và giúp bà hoàn chỉnh bản thảo trên máy vi tính là Anh Thư – cô con gái công tác ở Hà Nội, phải bay vô Huế và cùng bà lên A Lưới. Một nhân vật nữa nhiệt tình ủng hộ bà ra cuốn sách đặc biệt này là Quỳnh Tường, Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ A Lưới. Chị đã cung cấp nhiều ảnh giới thiệu sự đối thay của A Lưới trong thời gian gần đây in trong Phần Phụ lục cuốn sách. Cuốn sách in khổ lớn 20x28cm gồm đến 20 bài viết (trong đó có một số bài do nhà giáo Trần Nguyễn Khánh Phong thực hiện khi được mời tham gia chương trình nghiên cứu về A Lưới) và hơn trăm bức ảnh chụp trong nhiều giai đoạn, nên việc trình bày, hoàn chỉnh bản thảo không hề đơn giản. Vậy nên vừa gặp tôi, bà Đạm Thư thốt lên vui vẻ: “Cuốn sách coi như đã xong anh ạ. Tôi quá mừng thấy bà con dân tộc A Lưới ngày nay sống văn minh, kinh tế phát triển khá lắm…”

Bà quyết tâm làm cuốn sách vì “cảm nhận thấy quỹ thời gian sống của mình không còn bao lâu, trong khi những kỉ niệm sâu về vùng A Lưới… nặng lòng không thể quên vì thời gian trải dài 10 năm…” (Trích Thay lời mở đầu sách).

Trong cuốn sách, bà đã cho in lại các bài phóng sự và phỏng vấn các cựu chiến binh, các già làng, các nữ TNXP, dân công hỏa tuyến, giao liên… kèm ảnh minh họa, giúp bạn đọc hôm nay hiểu rõ hơn sự hy sinh vô bờ của bà con các dân tộc A Lưới trên một địa bàn chiến tranh khốc liệt. Bà và các chuyên gia Pháp đã gặp già làng Quỳnh Hiêm trên 100 tuổi; “cụ suốt ngày chỉ đóng khố và cởi trần… nói mãi cụ mới chịu mặc chiếc áo phông, vẫn đóng khố để lộ cặp đùi săn nâu bóng. Tôi nghĩ thầm, cụ kiên quyết gìn giữ bản sắc văn hoá dan tộc Tà Ôi của mình… Cụ ung dung ngồi bó gối kể rành rọt với trí nhớ tuyệt vời như một cuốn từ điển sống… Cụ tự hào đã làm già làng hơn 20 năm, ủng hộ cách mạng, kêu gọi bà con đóng góp sức người, sức của cho bộ đội…” (Trích bài Nhớ rừng xanh cây cao bóng cả… viết từ năm 2003).

Cụ là nhân chứng trong cuộc khủng bố kinh hoàng của bọn lính Pháp 50 năm trước đây, lúc chúng lên xây dựng lại sân bay dã chiến đã bị bỏ hoang. Nay 6 người con trai có nhà gỗ xung quanh nhà cụ, trong đó người con thứ 4 của cụ hiện là công an ở thị trấn, có vợ là bà Nguyễn Thị Sửu, tiến sĩ ngôn ngữ học, đại biểu Quốc hội khóa XV… Còn già làng Hồ Ki (bố của ông Hồ Xuân Chêm, Trưởng Ban Dân số và kế hoạch hóa gia đình A Lưới) dân tộc Pa Cô, 80 tuổi, từng “chỉ huy voi vận tải súng đạn cho bộ đội do nhu cầu cấp bách khi chưa có đường ô tô tài súng đạn vào Nam. Cụ đã tặng bộ đội 2 con voi nhà… Cụ thở dài nhớ tiếng hổ gầm, voi hí trong rừng khuya. Vùng này trước có 10 con voi vận tải, song chúng dần dần chết hết vì bom đạn…” (Trích bài viết năm 2003 kèm ảnh chụp).

Trong chuyến trở lại A Lưới lần này, bà Đạm Thư đã tìm gặp lại anh hùng Kan Lịch mà bà đã gặp lần đầu trong chuyến lên A Lưới năm 2004. Trong bài Kan Lịch, bày lần được gặp bác Hồ – Chuyện đời tự kể, nữ anh hùng đã phác họa bối cảnh cuộc chiến đấu ở A Lưới, khi bà tiếp bước người chú ruột là anh hùng Hồ Vai, tham gia chiến đấu từ năm 1964; đến năm 1968, khi bị sốt rét ác tính phải chuyển ra Hà Nội cứu chữa tại Viện Quân y 108; sức khỏe hồi phục, bà xin trở về A Lưới tiếp tục chiến đấu, nhưng Bác Hồ bảo: “Cháu phải ở lại miền Bắc tiếp tục học tập chính trị và văn hoá. Không nâng cao trình độ làm sao cháu có thể giúp ích cho đồng bào trong tương lai được hiệu quả…”. Hai người con của anh hùng, Hồ Thị Kim Thắng và Hồ Văn Lợi, đều tốt nghiệp đại học, có công việc ổn định…

Cũng trong chuyến trở lại A Lưới cuối tháng 3/2023, bà đã đến thăm gia đình Quỳnh Thu, dân tộc Tà Ôi, tham gia bộ đội từ 1965, năm 1972 là Đại đội phó, Chính trị viên ở vùng A Lưới. Ông có hai người con trai nhiễm chất độc da cam đã mất sớm, dù gia đình và bệnh viện hết lòng cứu chữa. Điều an ủi là ông còn một người con trai sinh năm 1983 khỏe mạnh, hiện là sĩ quan biên phòng… Bà Đạm Thư đã gặp phỏng vấn ông năm 2004; nay trở lại thì ông đã mất năm 2013 do bị ung thư gan… Bà đã tìm gặp lại Kăn Lây, nhiều năm làm dân công hỏa tuyến cho bộ đội. Gần chục năm trước bà đã gặp chị mấy lần cùng giúp bác sĩ Doray (người Pháp) và đoàn làm phim của Pháp tìm hiểu cuộc đời bà để tố cáo trước thế giờ về ảnh hưởng lâu dài của chất độc da cam đối với vùng đất này. Chồng bà mất vì ung thư gan từ năm 1994; đứa con đầu mất sau khi sinh vài giờ cũng do ảnh hưởng của chất dộc da cam. Năm 1995, người con trai nữa của bà là Kê Văn Bắc cũng phát bệnh vì chất độc da cam, nằm liệt giường cho đến nay…

Khó kể hết tình cảnh khốn khổ và sự đổi đời của những nhân vật mà bà Đạm Thư gặp lại trong chuyến trở lại A Lưới cuối tháng 3/2023. Bài Hai chuyến đi A Lưới với một đoàn làm phim Pháp cùng chùm ảnh kèm theo ghi lại rất nhiều cảnh cảm động giữa những người bạn quốc tế đối với người dân tộc tại một vùng đất chịu nhiều thiệt thòi: Bà Leslie Wiener, người trong đoàn làm phim tài liệu Vụ Kiện đòi công lý cho các nạn nhân chất độc da cam ở Việt Nam của Đài Truyền hình France-5 tặng gia đình Kăn Lây một cặp dê và nhiều đồ chơi cho các trẻ nhỏ, thân ái xoa tay chân và hỏi han (bằng cử chỉ, dáng điệu) với nạn nhân Kê Văn Bắc nằm liệt trên giường và em tỏ ra rất thích thú..

Có lẽ cũng cần nói thêm, nội dung chủ yếu trong những bài viết kể trên, sau khi bà Đạm Thư và cộng sự dịch ra tiếng Pháp, đã được đưa vào cuốn sách do ông J.Maitre chủ biên ra mắt tại Paris tháng 10/2013. Ông J.Maitre là chủ nhiệm nghiên cứu ở CNRS - Trung tâm nghiên cứu khoa học quốc gia Pháp, là bạn của bà Nguyễn Thị Bình từ khi bà sang Paris dự Hòa đàm về Việt Nam. Ông dù tuổi cao những vẫn cùng bà Đạm Thư lên A Lưới mấy lần từ năm 2002…

Thật tiếc là khi cuốn sách này hoàn thành được gửi sang Pháp thì ông J.Maitre không còn nữa để thấy những hình ảnh tươi đẹp đầy sức sống ở A Lưới mà ông cùng những người bạn quý của Việt Nam từng kỳ vọng được in phần sau cuốn sách – những trẻ em Trường Mầm non A Lưới ca hát, các em học sinh cấp 3 sinh hoạt văn nghệ ở hạ lưu thác A Nôr, phụ nữ A Lưới dệt Dèng, nghệ nhân Mai Thị Hợp quảng bá đặc sản Dèng tại Nga… (Ông mất 2013, thọ 88 tuổi). Tuy vậy, cuốn sách với rất nhiều “hình ảnh biết nói” đã đến được với bạn bè ông J.Maitre và với bà con dân tộc ở A Lưới (mà không phải ai cũng đọc thạo tiếng Kinh), tiếp thêm sức sống cho một vùng đất từng bị hủy diệt đang không ngừng đổi sắc thay da...

________

Tiếng vọng Trường Sơn, Tập Ghi chép & ảnh của Nguyễn Hạc Đạm Thư

Nguyễn Khắc Phê

Nguồn Văn nghệ số 20/2023


Có thể bạn quan tâm