April 26, 2024, 7:24 pm

Ở nơi con sông Hồng chảy vào đất Việt

Tôi có dịp được đến địa danh “Nơi con sông Hồng chảy vào đất Việt” vào một ngày đầu xuân khi hoa mận nở trắng những vạt núi đồi ven quốc lộ, xen lẫn sắc đào rừng hồng lên, đó là Lũng Pô, là “đầu nguồn con nước”, nơi con sông Hồng và suối Lũng Pô gặp nhau, cũng là nơi sông Hồng bắt đầu chảy vào đất Việt Nam.

 

 

Nhà thơ Dương Soái - tác giả bài thơ Gửi em ở cuối sông Hồng đã chia sẻ về hoàn cảnh ra đời của bài thơ mang tâm hồn người lính: Những ngày đầu chiến tranh biên giới phía Bắc ông là phóng viên của Đài phát thanh Hoàng Liên Sơn, được cử lên mặt trận ngay trong tháng 2/1979. Đến mặt trận, gặp các chiến sĩ, có người trở về sau trận đánh máu vẫn còn chảy ròng ròng. Khi biết Dương Soái là nhà báo, họ nói với ông: “Anh là nhà báo, anh phải nói với mọi người rằng: Còn chúng em, thì còn biên giới”. Sau đó, họ nhờ Dương Soái gửi những lá thư về gia đình. Có lá thư đã viết thư xong, có lá thư còn đang viết dở. Lại có người chỉ kịp đọc cho Dương Soái địa chỉ của gia đình và nhắn một câu ngắn gọn: “Con vẫn sống...

Dương Soái nhận tất cả những lá thư ấy và trở về sau khi đã hoàn thành nhiệm vụ tác nghiệp. Trong lúc chờ tàu ở ga Phố Lu, anh kiểm nhanh những lá thư và thấy các dòng địa chỉ đều tập trung ở: Hà Sơn Bình, Hà Nam Ninh, Thái Bình, Hải Hưng, Vĩnh Phú, Hà Nội… Và điều khiến anh ngạc nhiên là hầu hết những địa chỉ đó đều nằm dọc con sông Hồng. Từ suy nghĩ về dòng sông, anh đã hình thành nên cái tứ của một bài thơ. Nhìn màu nước cuộn đỏ của sông Hồng, nhớ lời của những chiến sĩ mà anh vừa gặp, Dương Soái đã viết rất nhanh bài thơ Gửi em ở cuối sông Hồng:

Anh ở Lào Cai

Nơi con sông Hồng chảy vào đất Việt

Tháng Hai, mùa này con nước

Lắng phù sa in bóng đôi bờ.

       

Biết em năm ngóng, tháng chờ

Cứ chiều chiều ra sông gánh nước

Nên ngày ngày cùng bạn bè lên chốt

Anh lại xuống sông Hồng cho thoả

nỗi em mong.

 

Đài báo gió mùa, em thương ở

đầu sông

Đỉnh đồi cao chiến hào anh gặp rét

Biết mùa màng đồng quê chưa cấy hết

Tay em ngập dưới bùn, lúa có thẳng

 hàng không?

           

Giá chúng mình còn cái thuở

dung dăng...

Anh thả lá thuyền xuôi về dưới ấy

Em ra sông chắc em sẽ thấy

Chỉ nỗi nhớ chúng mình đủ ấm mọi

mùa đông…

 

Thì hỡi em yêu ở cuối sông Hồng

Nếu gặp dòng sông ngàu lên sắc đỏ

Là niềm thương anh gửi về em đó

Qua màu nước sông Hồng, em hiểu

chiến công anh.

Bài thơ sau đó đã được đăng trên tạp chí của Hội văn học Nghệ thuật Hoàng Liên Sơn. Và nếu cứ vậy, thì chúng ta sẽ chỉ biết đến một bài thơ hay, mang nhiều ý nghĩa Gửi em ở cuối sông Hồng của Dương Soái mà thôi! Nhưng rồi từ câu chuyện tình rất thi vị của của một vị tướng quân đội nhân dân Việt Nam, Ông Nguyễn Hữu Khảm, ca khúc nổi tiếng Gửi em ở cuối sông Hồng của nhạc sĩ Thuận Yến ra đời được lấy cảm hứng từ đây!

Ông Nguyễn Hữu Khảm lần lượt tham gia các chiến trường Lào, chiến trường miền Nam khốc liệt… Sau giải phóng miền Nam, ông theo đơn vị từ Đông Nam Bộ về Lai Châu, Lào Cai. Năm 1979, ông tham gia cuộc chiến chống xâm lược quy mô lớn ở biên giới phía Bắc nước ta. Suốt những năm tháng biền biệt chinh chiến, ông Khảm chỉ lo việc quân, việc nước mà cứ vô tư chẳng nghĩ đến chuyện lập gia đình riêng.

Sau trận chiến tháng 2 năm 1979, Trung đoàn 148 về đóng quân ở Xuân Quang, Bảo Thắng, Lào Cai; lúc ấy ông Khảm là trung đoàn trưởng. Một đồng chí tiểu đoàn trưởng thuộc cấp báo cáo với ông rằng bản thân đang yêu một nữ giáo viên ở Xuân Quang, cả hai dự tính sẽ kết hôn và nhờ ông thay mặt đơn vị đến nhà gái để thưa chuyện. Trong buổi ăn hỏi, có vị đại diện nhà gái hỏi: “Bác được mấy cháu rồi?”. Câu hỏi bất ngờ khiến ông đỏ mặt. Nghe ông trả lời chưa có vợ, cả nhà gái cười ồ lên. Đâu đó từ trong đám đông có tiếng xì xầm: “Chưa vợ mà dám đi hỏi vợ cho người ta”…

Giữa năm 1979, ông Khảm về Hà Nội dự hội nghị tuyên dương sau cuộc chiến bảo vệ biên giới phía bắc. Họp xong ông ra ga Hàng Cỏ về Tuyên Quang để thăm bố mẹ và người thân khi ấy đang sinh sống ở huyện Chiêm Hóa. Gữa dòng người chen lấn lên tàu, ông giẫm phải đế dép của một cô gái xinh xắn, làm chiếc dép nhựa của cô đứt mất quai. Đang luống cuống chưa biết phải làm thế nào, thì cô gái quay lại trách: “Ơ cái anh bộ đội này, mắt anh để đâu?”. Anh bộ đội vội vàng xin lỗi rồi cúi xuống cầm chiếc dép đưa cho cô. Thời ấy khó khăn, dép rách thì mang về tìm cách gắn lại. Cô gái nhận chiếc dép cất vào túi rồi vội vàng lên tàu. Trên tàu, không biết do vô tình hay tạo hóa sắp đặt mà cả hai lại ngồi đối diện nhau. Lúc ấy, vị trung đoàn trưởng mới nhìn rõ cô gái. Thấy có người nhìn mình không chớp mắt, cô gái ngượng ngùng quay hết bên nọ lại bên kia. Một lúc sau, cô buộc phải mở lời: “Ơ cái anh này, nhìn gì mà ghê thế?”.

Anh bộ đội thủng thẳng: “Mắt tôi để trong túi rồi. Đâu có nữa mà nhìn!”. Là gợi lại câu trách: “mắt anh để đâu?” trước đó. Cô gái bật cười; tiếng cười phá tan bầu không khí “căng thẳng” song cũng chưa đưa họ đến cuộc trò chuyện nào hơn. Cả hai cứ thế lặng im cho tới khi đến Phú Thọ.

Thời điểm đó, từ Hà Nội về Tuyên Quang phải đi 2 chặng: Đi tàu hỏa từ Hà Nội về Phú Thọ, sau đó đi xe khách từ Phú Thọ về Tuyên Quang. Đến Phú Thọ, đang chuẩn bị cầm giấy công tác vào mua vé ưu tiên thì vị trung đoàn trưởng nhìn thấy tít phía cuối đoàn người dài dằng dặc xếp hàng có cô gái ấy. Biết tình hình này người đẹp khó mà mua được vé, có nguy cơ vạ vật ở bến xe cả đêm, vị trung đoàn trưởng mua liền hai vé, rồi tiến tới vỗ vào vai cô gái: “Này, anh cho vé này”. Sau một hồi đùn đẩy, cô gái cũng chịu nhận tấm vé và rút tiền túi xin trả nhưng vị trung đoàn trưởng hào phóng gạt đi.

Trên chuyến xe, họ cũng không nói gì với nhau nhiều bởi mỗi người ở một vị trí. Tuy vậy, trong đầu hai người đã thoắt ẩn hiện những ý nghĩ về nhau. Anh bộ đội khẽ thấy lòng xao động khi nghĩ đến người bạn đồng hành bất đắc dĩ. Xuống xe, cả hai cúi chào nhau lịch sự. Có lẽ họ nghĩ rằng, sẽ chẳng bao giờ gặp lại nữa…

Rời bến xe, cả hai lại rẽ cùng một hướng. Vị trung đoàn trưởng khi ấy chưa về Chiêm Hóa ngay mà quyết định đi tìm nhà vợ chồng người anh trai để ghé vào chơi. Ông cứ đi mãi, mà vẫn thấy cô ấy đi trước mặt mình. Cô ấy có lẽ cũng bắt đầu thấy lạ, mới đầu còn đi chậm, sau thì đi nhanh lắm, nhiều đoạn ngoái lại đầy cảnh giác. Cô ấy rẽ, ông cũng rẽ. Thấy có người bám theo sau mãi không rời, càng về cuối, cô ấy càng đi nhanh như chạy; cho đến khi cả hai cùng rẽ vào một ngõ. Cả hai không hề biết rằng, con đường mà họ đi hóa ra lại có cùng điểm đến. Anh trai của ông Khảm khi ấy lấy vợ nhưng chưa có điều kiện ra ở riêng nên ở nhờ nhà bố mẹ vợ. Và cô gái ấy chính là em vợ của anh trai ông. Ngày anh trai lấy vợ, ông Khảm còn đang ở chiến trường nên cả hai hoàn toàn không biết về nhau.

Ngay buổi hôm ấy, người chị dâu đã có ý vun vào cho cả hai. Từ đó, hai người dần dần tìm hiểu, thư đi thư lại nhiều lần. Tháng 5/1980, cô giáo thành Tuyên - Đỗ Thị Thực đã quyết định nhận lời nên duyên cùng anh bộ đội Nguyễn Hữu Khảm.

Yêu xa và cưới xong họ cũng vẫn ở trong tình cảnh đôi người đôi ngả. Bà Thực ở Chiêm Hóa dạy học, ông Khảm lại ngược lên đơn vị. Tranh thủ mùa hè năm 1980, bà Thực lên thăm chồng và ở lại một thời gian. Dịp ấy, nhạc sĩ Thuận Yến có chuyến lên Trung đoàn 148 đi thực tế để tìm cảm hứng viết ca khúc. Một buổi đang lang thang, nhìn thấy một cô gái xinh đẹp đang tất tả phơi ngô cùng các công vụ, ông lấy làm lạ, sao giữa vùng đồi núi hoang vu lại có một cô gái đẹp như thế, nhạc sĩ tiến đến hỏi chuyện, ông mới biết đó là vợ của vị trung đoàn trưởng từ Tuyên Quang lặn lộn lên thăm chồng. Cả hai cưới nhau đã 1 năm nhưng lúc nào cũng “Ở hai đầu nỗi nhớ”. Một ý tưởng nghệ thuật chợt lóe sáng trong đầu nhạc sĩ, ông liền nói với cô Thực rằng, từ chuyện tình yêu của cô, ông sẽ sáng tác một bài hát để tặng cho cô. Bà Thực nghe vậy phấn khởi “xin” thêm: “Anh viết tặng cho cả vợ những người lính như em nữa”. Nhạc sĩ xúc động đồng ý. Và đến khi gặp bài thơ của Dương Soái, ca khúc Gửi em ở cuối sông Hồng ra đời. Khi biết Thuận Yến sáng tác bài hát này để tặng vợ mình, ông Khảm về tìm nghe ngay và thấy lòng lâng lâng xúc động. Bài hát như là lời động viên khích lệ lớn với ông cùng những người lính nhiều năm xa nhà biền biệt.

… “Là chiến công, là niềm tin,

là tình yêu… ta gửi trao nhau

Sau gần 20 năm nên duyên chồng vợ, mãi đến cuối năm 1998, khi ông Khảm về Cục Quân huấn, Bộ quốc phòng, và sau này là trung tướng, Phó Tổng tham mưu trưởng Quân đội Nhân dân Việt Nam, vợ chồng ông Khảm mới có một cuộc sống vợ chồng đúng nghĩa.

Và cũng hơn 40 năm qua, những ca từ thiết tha, sâu lắng của bài hát Gửi em ở cuối sông Hồng đã đi vào biết bao tâm hồn người Việt, ca ngợi mối tình sắt son chung thủy của cô gái nơi quê nhà với người lính vượt qua muôn vàn gian khổ, canh giữ từng tấc đất thân yêu của Tổ quốc…

(Bài viết có sử dụng thông tin của một số bài viết có liên quan)

 Đào Xuân Dũng

Nguồn Văn nghệ số 1/2023


Có thể bạn quan tâm