Phạm Thị Kim Khánh lướt qua giai đoạn sung sức của thiếu nữ khi bước vào sang tác. Chị đắm say vào việc dạy học, công việc cuốn chị vào, từ một cô giáo dạy Văn ở trường Sư Phạm của Tỉnh rồi giảng viên Đại học công nghiệp thành phố Hồ Chí Minh, cho tận tới khi về chiều, chị mới viết và in thơ. Song đọc chị, người ta nhận ra tâm hồn thơ của chị đâu phải hôm nay mới đâm hoa kết trái…
Không sa đà vào sự phá phách truy tìm cái lạ hình thức, cũng không sa vào cái tôi cô độc buồn tẻ. Thơ chị là luôn dậy lên tiếng tha thiết yêu thương quê hương bản quán, cội nguồn dân tộc, đậm lối suy tư vật hóa. Từ con sông, ngọn cỏ, cái cây, cũng có hồn có thần, lại mang màu sắc triết lý, một lối quan sát, suy nghĩ, ví von hồn nhiên, cụ thể, gần gũi với thiên nhiên của một vùng văn hoá xứ Thanh… Đó là hình ảnh của người mẹ, song thực ra là tấm lòng đứa con thương mẹ khi con đi xa, với quê hương:|
Tháng Giêng hiu quạnh
Mẹ trùm khăn, môi đỏ quết trầu
Mắt rơm rớm canh chừng phía cổng
Con không về|
Tê tái
tháng Giêng
Đó là lời của cây: “Bàn tay xuân dịu dàng/ băng bó vết thương mùa đời cào xước.
Đó là tâm hồn người con xuất thân, chôn nhau nơi núi rừng thân thuộc như máu thịt:
Ra phố
không vấp đá
không núi chắn
ta lại nhìn về phía đá
mà trông!
Đó cũng là nơi người ta, chỉ những kẻ sinh ra ở núi, ở rừng quen thuộc, biết lắng nghe:
Nhưng hoa dẻ nói lời thơm ấm lắm
quen như là hơi ấm mẹ ta
Là nữ nhưng Phạm Thị Kim Khánh đôi khi có những câu rất hào sảng, không thua kém gì cái hơi khí của đấng nam nhi:
Trong bóng sông ta nhớ về bóng núi
nơi cửa sông điệp điệp sóng cửa rừng.
Khí thơ rất mạnh, có lẽ là cái khí chất của người quen với sự kì vĩ của núi non mà được núi sông dung dưỡng mà nên. Có lẽ thế chăng, nên ở thơ chị cách dùng từ ngữ nhẹ nhàng, tự nhiên như ngôn ngữ thường ngày của dân gian miền ngược:
Xe chạy qua mùa lụt vừa rút
phau phau triền sậy mùa hoa
chùm chùm rừng đuôi cáo
dựng ngược.
Hoặc như:
Sông muốn túa mát trong soi hoa ban hoa trẩu
nhưng đá dựng sông chĩa kiếm ghếch trời
Đá dốc lưng bắt sông làm vực xoáy
Hết nợ, xuống thung sâu sông bắt điệu tình ca.
Tả, dựng thi ảnh về sông, nhiều người xưa nay viết hay, nhưng thi nữ mà nhìn sông: nhưng đá dựng sông chĩa kiếm ghếch trời thì cũng thực là cái nhìn mang cái khí lực đâu còn mềm yếu nữ nhi nữa.
Tuy thế, Phạm Thị Kim Khánh vẫn gìn giữ cái dịu dàng tinh tế của người phụ nữ ăm ắp cái duyên, nó lộ ra, tỏa hương vị ở cái sự quan sát mang giàu tâm hồn người ở núi hiểu rừng:
Cây trúc trên triền xanh
nơi ngày giấu nắng...
Giấu cái nắng vào mình thành sắc vàng như lửa... Đó là cách cảm của riêng mà nên thơ.
Những câu thơ như: Cô gái Thái Sơn La vai trần giỡn nước... Sông khỏa nỗi nhọc nhằn dốc đứng truông xa... luôn là cái nhìn biểu hiện sự hiểu cảm sâu sắc con người miền sơn cước, có sự quan sát cảm nhận không hề hời hợt.
Trong tập, tôi rất thích bài Viên phấn. Ba khổ, 10 câu, Viên phấn cô đọng cái quan sát, suy ngẫm giàu tính triết luận về có thể là đời những người thày, song có thể suy luận rộng ra một cách sống, một tuyên ngôn về lẽ sống không thường:
Lời đau trắng
Mài ruột gian mà khắc
Niềm vui trắng
Mài thân tròn mà chép.
Vẹt kiệt cùng|
thành mẩu, thành bụi
Thân trắng thành bụi trắng|
Vui
đau!
Những câu thơ với nhiều đặc tính như thế tạo nên khuôn mặt Phạm Thị Kim Khánh đậm cá tính mà không giống người đi trước, vẫn làm ra cái chân dung riêng, vẫn hồn cốt bản mường mà rất riêng một giọng âm âm, tha thiết:
Ơ vía!
Bốn mươi vía lên chăm
Năm mươi vía lên chiêu
Vong khôn vía khéo
đi lạc thành vong khốn vía khéo
Vía lạc ra chợ
Vía theo lầm người ra bãi
Vía tuột hố sẩy hang quên lối về
Vía ơi
Về nhà ta
Đường vào có hoa bông páo
Lối ra có hoa bông trăng
Có rau sắng tháng Ba
Măng đắng măng ngọt tháng Sáu
Quả trám rụng trên rãy tháng Bảy
Hoa trảy nở phau phau tháng Tám ngày ngâu...
Hay ở bài Em biết anh ở đâu:
Em theo anh đuổi trâu ngoài gò
Cơm nắm bẻ chung một lẻn
Muối vừng chấm chung một mo|
Đi ra mó ra khe...
Anh nói mai sau mình nên vợ nên chồng
Anh lấy lụa anh bọc lấy vóc anh đùm.
Những câu thơ như thế có nguồn cội chăng? Tôi hỏi ra mới biết trong văn bản cổ của người Mường có câu: “Thương em anh lấy lụa anh bọc, lấy vóc anh đùm”. Thế nên có thể suy luận rằng, có những người thơ rất thuyết phục được bạn đọc đều từ cái gốc văn hóa vùng miền hay dân tộc mình, nó là cội gốc, là đế vững để văn hóa phát triển vẫn giữ cái hồn dân tộc nên có sức lay động lớn.
Cõi Vọng là tập thơ thứ Ba của Phạm Thị Kim Khánh, tất nhiên toàn tập có bài trồi sụt, song luôn nhất quán một gương mặt, nó như tiếng vọng từ cõi xứ thanh đặc sắc cất lên, đặc sắc đau đớn như loài Trầm kết hương khi “Máu rỉ lệ nhỏ” mà kết "kiếp trầm"
Thơ cũng vậy. Từ “Nỗi đau chân thật” mà “Thành mẩu trầm thơm...”
Nguồn Văn nghệ số 41/2019