April 26, 2024, 7:06 am

Nguyễn Khuê lặng lẽ khai quật kho báu tiền nhân

Giáo sư Nguyễn Khuê là nhà trí thức tài năng với nhiều công trình nghiên cứu có giá trị về văn học Hán Nôm và là nhà sư phạm nghiêm cẩn, mực thước đã góp phần đào tạo nhiều thế hệ sinh viên. Vừa qua, lễ mừng thọ 80 tuổi của ông đã được tổ chức trang trọng trong tình cảm ấm áp xúc động của nhiều thế hệ đồng nghiệp và học trò dành cho ông tại Khoa Văn học và Ngôn ngữ Trường đại học Khoa học xã hội và nhân văn TP.Hồ Chí Minh. Nhân dịp này Tuyển tập nghiên cứu và sáng tác của Nguyễn Khuê cũng được ra mắt.

Miệt mài với những giá trị của người xưa

Tùng Thiện vương Miên Thẩm, Tuy Lý vương Miên Trinh, Tương An quận vương Miên Bửu là ba người con thứ 10, 11, 12 của vua Minh Mạng thời nhà Nguyễn. Đây cũng là ba hoàng tử nổi tiếng giỏi văn chương, để lại nhiều tác phẩm có giá trị. Tuy nhiên, nếu như sau này hai người anh là Tùng Thiện vương và Tuy Lý vương hay được nhắc đến, đặc biệt là qua câu đối “Văn như Siêu, Quát vô Tiền Hán/ Thi đáo Tùng, Tuy thất Thịnh Đường”, thì Tương An quận vương bị lãng quên.

“Tương An là một thi tài thời danh, nổi tiếng ngang với Tùng, Tuy, từng chiếm một địa vị quan trọng trên thi đàn. Ngày nay, dành cho Tương An một chỗ ngồi trong văn học sử xứng đáng với sự nghiệp văn chương của vương thì cũng chỉ là phục hồi cái địa vị vương đã có trước kia. Phục hồi địa vị cho vương để khỏi bất công đối với người xưa, vì có tác giả chỉ để lại năm bảy bài thơ cũng đã được văn học sử dành cho một địa vị quan trọng”. Từ năm 1970, qua công trình nghiên cứu, dịch thuật, biên khảo công phu Tâm trạng Tương An quận vương qua thi ca của ông, tác giả Nguyễn Khuê đã vén bức màn phủ bụi thời gian để soi rọi, trả lại cho nền văn học chân dung cuộc đời và sự nghiệp tương đối hoàn chỉnh của một nhà thơ tiêu biểu của dân tộc. Năm 2005, công trình có giá trị và đầy đủ này về Tương An đã được Nhà xuất bản Văn Nghệ tiếp tục ấn hành.

Một trong những công trình đáng chú ý khác về văn học cổ Việt Nam của Nguyễn Khuê là tác phẩm Nguyễn Bỉnh Khiêm qua Bạch Vân am thi tập vốn là luận án tiến sĩ được hoàn thành năm 1975 và chính thức xuất bản năm 1991. Danh nhân Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà tư tưởng, nhà thơ lớn nhất nước ta thế kỷ XVI, có nhiều trước tác ảnh hưởng lâu bền đời sống văn học và văn hoá dân tộc, nhưng lại ít có công trình nghiên cứu chuyên biệt về ông từ thập niên 1990 trở về trước. Nguyễn Khuê đã dày công đào sâu nghiên cứu, phiên dịch 100 bài thơ chữ Hán còn nguyên bản, giới thiệu đầy đủ thân thế và sự nghiệp của Trạng Trình, đặc biệt là tình cảm, tư tưởng, giá trị nội dung và nghệ thuật của Bạch Vân am thi tập.

Sau khi chỉ ra rằng tư tưởng hay triết lý của Nguyễn Bỉnh Khiêm vốn hấp thu từ Tam giáo là Nho, Phật, Lão và đặt cơ sở trên thực tế khách quan của tình hình chính trị - xã hội đương thời, Nguyễn Khuê đã nhận định: “Tư tưởng Nguyễn Bỉnh Khiêm trong Bạch Vân am thi tập không phải là một hệ thống triết học, nhưng cũng đã hướng tới những vấn đề từ siêu hình đến hiện thực, bao hàm những quan niệm về vũ trụ và nhân sinh, gồm đủ những nhận định về con người cũng như xã hội, nói cách khác, có đủ cả hai phần hình nhi thượng và hình nhi hạ”.

Nguyễn Khuê cũng khảo sát kỹ và trình bày minh bạch về sấm ký Trạng Trình, mà từ thời Lê, Mạc về sau nhiều người dùng để giải thích, suy đoán, bàn luận những hiện tượng xã hội, thiên nhiên ở trong nước và một phần của thế giới. Ông viết: “Nguyễn Bỉnh Khiêm không phải là người duy nhất soạn sấm ký, nhưng hễ nói đến sấm ký là người ta nghĩ ngay đến Trạng Trình, gặp những câu sấm không biết xuất xứ từ đâu người ta cũng vội gán cho Trạng Trình. Cứ như thế, sấm Trạng Trình được lưu truyền, Trạng Trình được một số người thần thánh hoá như một bậc siêu phàm”.

Sự trân quý của Nguyễn Khuê đối với di sản tiền nhân còn thể hiện qua những công trình khảo cứu dịch thuật khác như: Nguyễn Trãi toàn tập tân biên, Phật học trung đẳng, Tuỳ Dượng đế diễm sử, Chân dung Hồ Biểu Chánh, Văn học Hán Nôm ở Gia Định - Sài Gòn, Khổng Tử - chân dung, học thuyết và môn sinh, Luận lý học Phật giáo,… “Nghiên cứu Hán Nôm là lĩnh vực ông dồn nhiều công sức và có nhiều đóng góp quan trọng. Phong cách nghiên cứu của ông là nghiêm cẩn, khoa học và trọng tư liệu. Các vấn đề mà ông trình bày bao giờ cũng tường tận, ngọn ngành, rõ ràng, khúc chiết. Những nghiên cứu và biên dịch của ông về Khổng tử, Phật giáo, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Tương An quận vương, Hồ Biểu Chánh,… là những đóng góp quan trọng của ông với học thuật nước nhà, sẽ tồn tại mãi với thời giang” - PGS.TS Đoàn Lê Giang đã nhận định trong bài Nhà giáo, học giả, nhà thơ Nguyễn Khuê.

 

Niềm đam mê cổ học & những bậc thầy

Giáo sư Nguyễn Khuê sinh năm1935 tại làng Dương Nỗ, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên, từng học trường Quốc học Huế, sau đó vào học Đại học Văn khoa Sài Gòn. Từ năm 1969 - 1975, Nguyễn Khuê làm giảng sư Đại học Văn khoa Sài Gòn, thỉnh giảng Đại học Vạn Hạnh và Đại học Văn khoa Cần Thơ. Sau ngày đất nước thống nhất, ông giảng dạy Hán Nôm và là Trưởng bộ môn Hán Nôm của Khoa Ngữ văn Đại học Tổng hợp TP.HCM, nay là Khoa Văn học và Ngôn ngữ Trường đại học Khoa học xã hội và nhân văn TP.HCM. Vừa giảng dạy vừa nghiên cứu văn học và văn hoá, ông đã vượt qua mọi hoàn cảnh, có những đóng góp đáng ghi nhận cho nền giáo dục và khoa học nhân văn.

Theo lời tự sự, từ năm mới 8 tuổi Nguyễn Khuê đã được ông nội bắt phải học chữ Hán. Ông nội là nhà nho lỡ vận, nặng lòng với Nho học. Mỗi kỳ nghỉ hè, ông nội cho Nguyễn Khuê sang làng Phù Yên kề bên học với người bạn là cụ Tú vốn đỗ Tú tài kỳ thi hương cuối cùng của nhà Nguyễn. Ông nội muốn Nguyễn Khuê dù có học cái mới thì cũng phải biết một ít chữ Hán để đọc được gia phả. Nguyễn Khuê học xong Tam tự kinh, Ấu học Hán tự tân thư chuyển sang Luận ngữ thì bỏ dở, vì phải dành thời gian cho việc học ở nhà trường.

 Giáo sư Nguyễn Khuê cho biết, ban đầu ông học chữ Hán vì bắt buộc, về sau thì say mê và cuối cùng nó ăn vào máu thịt một cách tự nhiên. Tình yêu cổ học trong ông hình thành từ ấy, nên sau này ông quyết định đi vào con đường Hán học, chọn ban C cổ ngữ lúc học tú tài với các môn chính là Anh văn hoặc Pháp văn, Hán văn hoặc La Tinh, triết học. Đối với ông, học và nghiên cứu cổ học trước hết sẽ giúp ích tìm hiểu những tư liệu chữ Hán ở quê hương cố đô Huế với nhiều bài thơ, văn bia, hoành phi, câu đối trong cung điện, lăng tẩm, đình chùa…

Khi vừa tốt nghiệp Cử nhân giáo khoa Việt Hán năm 1966, ông được một trường đại học ở Đài Loan cấp học bổng học Thạc sĩ văn học Trung Quốc, nhưng vì hoàn cảnh gia đình ông không thể đi Đài Loan lâu ngày được. Ở lại Sài Gòn, ông tiếp tục học cao học văn chương Việt Hán tại Đại học Văn khoa và nhận bằng thạc sĩ năm 1969. Vài năm sau ông học Tiến sĩ chuyên khoa Hán văn khoá đầu tiên (1972 - 1975) của Đại học Văn khoa Sài Gòn, cùng với các đồng môn Huỳnh Minh Đức, Nguyễn Hữu Lương, Nguyễn Văn Dương và Trần Như Uyên.

Giáo sư Nguyễn Khuê cho hay: “Trước năm 1975, Trường đại học Văn khoa Sài Gòn cấp hai loại văn bằng cử nhân: cử nhân văn khoa - tự do (licence libre) và cử nhân giáo khoa (licence d’enseignement). Cử nhân tự do không có giá trị bằng cử nhân giáo khoa, vì kiến thức không chuyên sâu về một ngành nào. Có cử nhân giáo khoa mới được học lên cao học. Bởi vậy, nhiều người học lấy cử nhân tự do trước, sau đó học tiếp, bổ sung các chứng chỉ bắt buộc phải có để được cấp bằng cử nhân giáo khoa”.

Ngoài ông nội và cụ Tú là hai người thầy đầu tiên buổi sơ học, Nguyễn Khuê đã được sự hướng dẫn của những người thầy đáng kính về cổ học thời kỳ đầu ở Đại học Văn khoa Sài Gòn như Bửu Cầm, Nghiêm Toản, Thẩm Quỳnh, Bùi Lương. Đây là những chuyên gia Hán Nôm uy tín hàng đầu mà Nguyễn Khuê luôn kính trọng. Đặc biệt, Nghiêm Toản, Bửu Cầm cùng với Lê Ngọc Trụ, Nguyễn Duy Cần đều giảng dạy tại Đại học Văn khoa Sài Gòn là bốn người không tốt nghiệp đại học nhưng được phong chức danh giáo sư đại học ở miền Nam trước năm 1975, vì họ có học vấn uyên thâm và nhiều công trình nghiên cứu có giá trị.

Ai đã từng học thầy Nguyễn Khuê đều cảm nhận ở ông một sự tận tuỵ hết mình trong từng tiết dạy, nghiêm ngắn trong từng nét chữ, sâu sắc trong từng lời bình giảng, nhẹ nhàng trong từng cử chỉ ứng xử với sinh viên. Lúc nào trang phục cũng chỉnh tề, mái tóc ngắn chải óng mượt, gương mặt nghiêm nghị, bước đi ung dung, luôn luôn đúng giờ, Nguyễn Khuê là hình ảnh của một nhà giáo mẫu mực, vừa cổ điển vừa hiện đại, vừa thu hút vừa e sợ đối với học trò!

Ai cũng biết tầm quan trọng của ngành Hán Nôm đối với nền văn hoá dân tộc, nhưng không phải ai cũng đủ khả năng và tâm huyết theo đuổi cái ngành đầy chông gai này. Có khoá không đủ sinh viên đăng ký để hình thành lớp học Hán Nôm. Có khoá thầy cô và các bạn sinh viên tìm cách thuyết phục lẫn nhau mới đủ số người đăng ký cho lớp học nhưng cũng sớm rơi rụng dần. Đó là chưa kể nhiều sinh viên Hán Nôm ra trường bị thất nghiệp, phải chuyển sang kiếm sống bằng những nghề không phải sở học. Tuy nhiên, nhờ sự kiên trì của những người thầy như Nguyễn Khuê đã giữ được ngọn lửa tình yêu không bao giờ tắt đối với ngành Hán Nôm ở phía Nam, đào tạo nên những đội ngũ tiếp nối nhau nghiên cứu, truyền thụ vốn văn học cổ điển của Việt Nam và Trung Quốc.

Trong lễ mừng sinh nhật 80 của thầy Nguyễn Khuê nhân Ngày Nhà giáo Việt Nam 20.11.2016 vừa qua, nhiều thế hệ học trò từ các nơi đã tụ hội về chúc thọ ông. Tuổi cao nhưng sức khoẻ ông vẫn tốt, trí tuệ minh mẫn. Nghỉ hưu nhưng ông vẫn tiếp tục nghiên cứu văn học Hán Nôm và sáng tác thơ. Ngoài những công trình biên khảo, dịch thuật ông còn xuất bản 3 tập thơ: Hương trời xa bay (1998), Cõi trăm năm (2002) và Trăm năm là cuộc lãng du (2005).

“Mình ta thầm lặng ngắm mây trời,

Soi bóng sông thu biêng biếc trôi.

Nghe trong hiu hắt chiều se lạnh,

Lật ngửa bàn tay ngẫm cuộc đời.”

Ấy là bài thơ ngắn Chiều bên sông của Nguyễn Khuê. Giữa trời nước mênh mang chiều thu se lạnh, ngắm mây trôi trong nỗi hiu hắt cô đơn, nhà thơ lật ngửa bàn tay để suy ngẫm về cuộc đời cũng chính là suy ngẫm về chính mình. Tại sao là lật ngửa bàn tay? Phải chăng đời người vốn trắng tay cuối cùng cũng chỉ là là tay trắng? Thơ Nguyễn Khuê kết tinh của một tâm hồn giàu suy tư, trải nghiệm trước thiên nhiên và con người, mang vẻ đẹp nhẹ nhàng, ý nhị và sâu lắng.

Nguyễn Khuê làm thơ từ khi còn đi học. Thơ là người bạn đường tri kỷ lặng lẽ của ông. Khi không thể bày tỏ được nỗi lòng mình bằng tư cách nhà giáo hay nhà nghiên cứu thì ông lại gửi gắm vào thơ. Như trong bài thơ Giã từ bến sông đầy tâm sự của ông, mà những “khách” học trò như tôi càng đọc càng day dứt:

“Ông lái đò suốt một đời chở khách

Trên sông đưa lớp lớp người qua

Chợt một hôm soi mình mặt nước

Thấy mái đầu đã tuyết sương pha

Rồi một chiều từ giã bến sông

Bên bờ để lại chiếc thuyền không

Hoàng hôn tím ngát trên sông lạnh

Mây trắng trời cao thanh thản trông…”


Có thể bạn quan tâm