April 27, 2024, 5:49 am

Một kiểu thơ trữ tình luận đề

 

Già sáu chục bài thơ trong tập Bên thềm 4.0 của Nguyễn Đinh Minh hiện lên khá nhất quán một lối thơ suy tưởng. Suy tưởng trong lập tứ. Suy tưởng trong kết cấu. Suy tưởng trong hình ảnh, ngôn từ… Trên cái nền của ngày hôm nay, thời hiện tại, được gọi là thời 4.0, tác giả đã cật vấn, xét đoán, phản ứng lại trước rất nhiều điều thuộc hiện tại hay quá khứ, ở ta hoặc trên thế giới, những điều tưởng như đã trở thành xác tín hoặc đã định hình…

Không đi theo tinh thần quyết định luận, nghĩa là thủ đắc chân lý, tác giả thường đưa ra các câu hỏi, nêu lên những hoài nghi, kêu gọi người đọc nhập cuộc, trao cho người đọc đi tìm câu trả lời theo cách riêng của mỗi người… Khi suy tưởng về Thiền, tác giả nghi ngờ về sự tồn tại vĩnh hằng của cây Bồ đề, cây có ý nghĩa biểu trưng Phật giáo: “Mỗi đời người vẫn như con thuyền giữa dòng dâu bể/ Treo phận mình trên đầu sóng nhân gian” (Thiền và sóng sinh tồn). Hoặc nhân đọc lại Lão Tử trong tâm thế hôm nay, tác giả như ngộ ra được một điều sâu sắc: “Vì thế, nếu là hoa, hãy nhớ thơm/ Nếu là cỏ, hãy nhủ lòng đừng quên biếc…” (Đoc Lão Tử thời 4.0)…

Mỗi khi suy tưởng về bất cứ điều gì trong đời sống thực tại, tác giả nhân đấy mà lên án chiến tranh; chống bạo lực, chống cái ác, cái giả dối; chống văn minh kỹ trị, hướng tới những khao khát nhân văn, cao quý: “Mới hiểu các loài hoa cùng nụ cười đều mọc lên từ đất/ Gửi hạt mầm nhỏ nhoi đất hẹn trả mùa vàng” (Và ngộ được trái đất này như mẹ). Khi đi thăm Hàn Quốc, tác giả đã kết thúc bài thơ bằng những câu thơ chất chứa một nỗi thất vọng lớn: “Chiều Bắc Á bây giờ chớm thu/ Nhưng không gian toàn lửa/ Thảng thốt tiếng bầy chim trĩu cánh thiên di…” (Chiều Bắc Á).

Tôi gọi những bài thơ nặng chất suy tư như vậy của Nguyễn Đình Minh là kiểu thơ luận đề. Một ý tưởng/ tư tưởng có trước, phục sẵn trong trí não của tác giả đã chi phối việc kiến tạo bài thơ, từ đầu đến cuối, khi đó thơ luận đề ra đời. Ở đây cần một lưu ý: Trong rất nhiều trường hợp, thơ đến trong tâm trí người sáng tạo, không phải chỉ như cách thông thường là do cảm xúc, vô thức, mà có khi còn do một ý tưởng/nhận thức/quan niệm xuất hiện, chi phối. Khi đó xảy ra hai khả năng: 1, Ý tưởng ấy chỉ là cái cớ có ý nghĩa gợi cảm hứng cho nhà thơ sáng tạo bằng một mạch trữ tình nhất quán toàn bài; và 2, Nó được khai triển cơ bản bằng luận lý, lập luận xuyên suốt. Trong trường hợp đầu, tính luận đề được làm mờ đi bằng sự tươi mát của cảm xúc và hình ảnh, dẫn đến khả năng sẽ có được bài thơ hay. Còn trong trường hợp thứ hai, khả năng thành công khó hơn, vì sự thông minh có khi cũng thú vị, nhưng thông minh không phải là yếu tính đầu tiên của thơ (dù rằng cần thiết). Thơ hay bao giờ cũng nhuần nhuyễn giữa cái sâu của cảm xúc và cái cao của sự thông minh.

Có thể nhặt ra trong tập thơ của Nguyễn Đình Minh không ít những câu thơ mang vẻ đẹp lấp lánh của ý tưởng mà vẫn mặn mà cảm xúc:

- Hoang hoải cồn mây đen như vết mực vảy vào trời

Suối đã lọc trong, sao vẫn còn bến Đục?     

            (Ghi trên đất Phật)

- Sao không như ngọn nến

Đốt cháy hết mình và chết dưới trời xanh       

(Chiếc bóng)

- Cô độc một cánh buồm trước bão giông biển cả

Để lại cõi người những mộ gió đầy vơi…     

            (Kiếp vĩ nhân)

Xét ở đơn vị bài, có một số bài khá nhuần nhuyễn giữa cảm xúc và lý tính, do vậy tạo nên vẻ đẹp giàu thi tính, gây ấn tượng. Có thể kể đó là những bài: Buông mây cho trời rạng, Chiều Bắc Á, Mây tháng Tư bảng lảng, Mưa Tây Bắc, Khói mây Đầm Vạc. Ở đây, lý tính vẫn cất tiếng nhưng không đoạt quyền phát ngôn trực tiếp mà vẫn hòa hợp với cảm xúc, lý tính đã được trữ tình hóa.

Cách mà Nguyễn Đình Minh thiết lập cấu trúc trong mỗi bài thơ thường là bằng những tương quan sự sống được phát hiện và diễn giải. Một tín điều tôn giáo tưởng như đã mặc định, nhưng sự sống thực tại lại hiện lên rất khác. Một buổi chiều Bắc Á thanh bình nhưng chất chứa bên trong thùng thuốc nổ chiến tranh. Một tinh thần ăn chay nơi cửa Phật lại “vấn vương tượng hình phàm tục”. Một chiếc cổng làng rồi sẽ ra sao khi có sự lên ngôi của cổng 4.0, v..v… Sự đối lập bao giờ cũng kích hoạt tư duy đối thoại hơn là sự đồng thuận xuôi chiều.

Hầu hết Nguyễn Đình Minh vẫn triển khai hình thái câu/bài thơ theo thể thơ tự do 7 chữ, khi có khi không vần, với 4 câu cách khổ. Chính vì thế, cái hơi thơ trở nên quen thuộc, mực thước. Ở điểm này, người đọc vẫn chờ sự biến hóa linh hoạt, đa dạng hơn của nhà thơ.

Thơ luận đề đòi hỏi người làm thơ phải vật lộn với ý tưởng sao cho mới lạ, sắc sảo; và cao hơn, phải trữ tình hóa nó, nội cảm hóa nó, lạ hóa nó theo cách riêng mới có thể thành thơ hay được. Tập thơ Bên thêm 4.0 là tập thứ năm của Nguyễn Đình Minh nhất quán một lối thơ này. Người đọc nhận ra một nỗ lực làm mới thơ rất đáng trân trọng so với hiện tình thơ hôm nay.

Nguồn Văn nghệ số 47/2019

 

 

 

 


Có thể bạn quan tâm