April 26, 2024, 11:15 am

Lớn lên từ dòng chảy văn hóa của dân tộc

 

1.

Phạm Tiến Triều là một nhà thơ thuộc thế hệ 7x. Nhưng ai đã từng đọc thơ anh lại cảm nhận rõ chất sống trẻ trung, nhiệt huyết, hồn hậu trong từng câu chữ. Sự sáng tạo trong thơ anh trong hai tập thơ gần nhất, từ tập Mùa bông trăng đến Bùa lá đã xuất hiện đậm nét một “đường viền ngôn ngữ” - đó là cơ sở ban đầu cho việc xác lập giọng điệu thơ anh.

Bùa lá gồm 40 bài thơ với xúc cảm rất phong phú, viết về công việc, về tình yêu, về những bâng khuâng, hẫng hụt, tiếc nuối, cả những khổ đau còn chất chứa trong tim như cách người ta ghi lại những cảm xúc bằng thơ vậy. Nhưng ấn tượng nhất có lẽ là những bài thơ dẫn dắt người đọc hòa vào tình yêu của không gian văn hóa Mường với sự in dấu đậm nét của lời rang, lời xường, câu bọ meẹng…

2.

Bùa lá - độc đáo một không gian văn hóa xứ Mường. Để mang đến không gian văn hóa Mường trong tâm thức người đọc, ngòi bút của nhà thơ đã tập trung diễn tả những xúc cảm, hoài niệm về những ngày lễ Tết, về phong tục tập quán, tín ngưỡng dân gian, đặc sản vùng miền, cảnh sắc thiên nhiên, địa danh văn hóa... Đó là những trải nghiệm, những trăn trở với một miền quê yêu dấu. Anh đã đưa tâm hồn người Mường vào thơ, anh tư duy theo cách của người Mường với thi pháp thơ hiện đại, vừa làm giàu bản sắc dân tộc, vừa mang hơi thở của hiện thực. Đọc thơ anh ta thấy sông, thấy suối, thấy đá, thấy rừng, thấy thấp thoáng bản nhỏ người Mường bình yên, thấy cái cách trở, nghèo khó của rừng núi và lời dặn, lời hát, câu xường, câu rang văng vẳng đâu đây. Đặc biệt, bao trùm lên tất cả là tình người mộc mạc, chân chất mà vẫn lãng mạn, bay bổng: Nàng yêu à!/ ta đã phải lòng tiếng xường trong trẻo đêm trăng/ say lời xường bên áng/ tiếng nàng có bùa yêu/ giọng nàng có men tình/ buộc ta vào lời thương. (Lời yêu bên dốc núi)

Người Mường vốn sống gần gũi với thiên nhiên, vì vậy cũng sớm hình thành cho mình những hình thái sinh hoạt văn hóa khác nhau. Trong đó phải kể đến những quan niệm về vía và phong tục buộc vía. Lễ buộc vía bao giờ cũng được tổ chức một cách trang trọng, bởi sợi chỉ mảnh buộc trên tay con trẻ mang theo niềm tin về sự bình an và may mắn. Nhưng thơ anh chẳng phải là những diễn ngôn giản đơn về những tập quán, lễ lạt mà bên trong đó là ý thức, là niềm tự hào về vẻ đẹp của cội nguồn văn hóa dân tộc cất lên thành vần, thành điệu tự nhiên như sông như suối, như cuộc sống, như hơi thở: Mẹ ơi/ bố à/ngày con đi/ mẹ dặn con giữ vía cho chắc/ bố bảo con cầm vía cho bền/ đừng lạc theo người mường lạ/ đừng nghe theo người không quen. (Lạc vía)

Cũng là tình cảm tha thiết của người cha dành cho đứa con bé nhỏ nhưng anh đã lựa chọn cách diễn đạt khác đi hay nói đúng hơn là trở về cách nói nôm na, gần gũi quê hương mình: Ngủ đi con ơi/ cho trái bưởi chín vàng, buồng nang chín chói/ cho mụ Dạ Dần thương quẳng cho câu xường ru/ Ngủ đi con khép đôi mắt tròn như trái đu/ mặt con xinh như cánh bông trăng tháng ba hoa nở/ màu hoa đẹp sẽ nhắc con niềm thương nỗi nhớ/ chuyện nàng Ờm trong trắng của mường ta. (Ngủ đi con ơi)

Những hình ảnh buồng nang, trái đu, bông trăng, mụ Dạ Dần, nàng Ờm và câu xường ru có thể còn xa lạ với nhiều người nhưng với người Mường thì nó không chỉ gợi những nỗi niềm thương nhớ mà còn có nhiều ý nghĩa sâu xa. Nếu không được trang bị những hiểu biết nhất định về văn hóa Mường, người đọc sẽ không nhìn thấu hết tình cảm người cha dành cho đứa con bé bỏng. Trong lời ru của người cha Mường có những nét văn hóa vốn đằm sâu trong hồn dân tộc, có bóng dáng của nàng Ờm với tình yêu trong trắng, thủy chung dành cho chàng Bông Hương hóa thân trong cánh bông trăng tinh khiết của tháng ba hoa nở. Mỗi lời ru là mong muốn con được lớn lên trọn vẹn trong tình yêu, trong ngọn nguồn văn hóa của xứ Mường chảy mãi.

3.

Sở hữu biển ngôn từ giàu đẹp của dân tộc, nhưng kết hợp từ thế nào để cho hay cho đẹp thì không phải chuyện dễ dàng. Phạm Tiến Triều có lẽ ý thức rất rõ điểu đó. Bởi vậy, mỗi bài thơ trong tập “Bùa lá” đều là những cố gắng, tìm tòi, sáng tạo cách diễn đạt mới, không lặp lại người khác và cũng không lặp lại chính mình một cách nhàm chán. Nhiều hình ảnh so sánh vì thế lạ nhưng vẫn rất tự nhiên: Chưa cho cha được miếng canh ngon/ lưng người đã cong như vành trăng cuối tháng/ chưa cho mẹ được tấm áo thơm/ mắt người đã mong manh như lọn khói lưng chiều. (Nợ quê hương)

Hay: Anh như ngọn đồi khát/ cỏ cháy khô đến cạn cả giấc mơ/ nụ cười em như cơn mưa ngày hạ/ tưới tắm giấc mơ mùa. (Em cơn mưa ngày hạ)

Độc giả biết đến Phạm Tiến Triều bởi nhiều vần thơ viết về tình yêu. Nhưng đến cái tuổi trạc ngoại tứ tuần, thơ viết về tình yêu của anh đằm hơn, sâu hơn, kín đáo hơn. Đó là tiếng nói của một trái tim từng tha thiết yêu thương và cũng đã tột cùng đau khổ: “Đâu thể dối lòng/ khi mỗi ngày em đi vào giấc mơ của anh/ như người lữ khách đi vào khu vườn không cánh cổng/ em dắt giấc mơ anh đi qua dặm dài/ phiêu lưu” (Khu vườn không cánh cổng). Để rồi đau đớn khi “ngày có người đàn ông phương xa/ cầm tay em chạy ngang qua khu vườn không cánh cổng/ giấc mơ anh chới với/ bay về phía xa xôi/xa xôi”, “Và em cứ bình tâm quên ngày cũ/ Quên nụ hôn vội vã buổi chiều hoang”, “Anh sẽ về những đêm suông nhạt nhẽo/ Vít cần rượu xóa hết dấu môi hôn” (Anh sẽ đợi em về). Có những niềm yêu không bộc lộ thành lời, có những niềm đau gào thét trong tim, có chút tiếc nuối, có chút chênh vênh mơ hồ, vô định được anh thể hiện rải rác trong thơ. Và người đọc phải kết nối, xâu chuỗi lại mới có thể phần nào nhang nhác hình dung.

Bùa lá không phải bài nào cũng hay, nhưng nó đánh dấu bước trưởng thành của một ngòi bút. Trong lúc những giá trị tinh thần phần nào bị người hiện đại xem nhẹ, nhà thơ nhiều khi phải đối diện với những bạc bẽo của nghề, thì những nỗ lực tìm tòi, sáng tạo của nhà thơ Phạm Tiến Triều là một điều rất đáng trân quý. Những tín hiệu văn hóa trong thơ anh không phải ai cũng“dung nạp” được, mỗi người đọc bằng những phông nền văn hóa, những trải nghiệm khác nhau sẽ có những ấn tượng, cảm nhận khác nhau về thơ anh. Sau ba tập thơ đầu đến Bùa lá anh đã dần hé mở ra trước người đọc một chân trời thơ mới. Cất lên và tôn cao cái nền vốn có trong bề dày văn hóa, tôi tin thành tựu của Phạm Tiến Triều sẽ không chỉ dừng lại ở những cái mà anh đã có.

Nguồn Văn nghệ số 49/2020


Có thể bạn quan tâm