April 27, 2024, 7:27 am

Lão Ty Hênh

         Làng tôi ở giữa vùng quê nghèo, những hình ảnh tôi còn lưu giữ được trong ký ức là những ngôi nhà tường đắp đất sù sì, mái lợp rạ, mép mái tua rua như mái tóc bị cắt bởi một anh thợ vụng. Mỗi khi có mưa lũ trẻ con thường đứng trước hiên giơ tay hứng nước mái hiên và hắt vào nhau cười ríc rích. Các con đường đi đều quanh co và cũng toàn là  đường đất, mùa mưa trơn tuột, lầy lội. Bầy trâu bốn mùa lùi lũi ra đồng cùng những bóng áo nhuộm nước nâu, loang màu muối trắng... Có nhiều thứ để nhớ lắm, nhưng tôi thường không quên bao giờ đó là cây si già nghìn năm tuổi ngay trước nhà tôi che bóng một ngôi miếu cổ, bốn mùa xanh ngát và hai ông lão già. Một trong hai ông lão ấy là ông Ty Hênh.

       Thật ra đến bây giờ tôi cũng không rõ Ty là gì và Hênh có phải là tên của ông hay không? Năm lên mười tuổi tôi rất mê đọc truyện. Có bao nhiêu báo của bố cầm về tôi đọc hết, vớ được cuốn truyện nào cũng ngốn ngấu sạch. Khi hết thứ để đọc tôi đâm ra bần thần, thằng Canh bạn tôi, mách nước: “Mày ra nhà ông Kiệt mà mượn vì ông ấy thích trẻ con đọc truyện lắm, nhưng không một đứa nào dám vào cả, hoặc có vào thì cũng phải chạy sớm.

Tôi nhớ người lớn của làng khi kể về thời cải cách ruộng đất có nói đến ông tên là Kiệt và cùng cười bình luận "Ai bảo lão ấy trót biết võ vẽ vài ba chữ nên "Đội" chia cho hai cái giá sách để đọc cho... no!".

Một buổi trưa mùa hè, khi cơn nghiền truyện đến, tôi liều mạng xông thẳng vào nhà ông. Ông nằm trên một chiếc võng đay, tay phe phẩy chiếc quạt mo, mắt đeo kính. Mái tóc và bộ râu bạc của ông rỏ xuống che kín một góc trang truyện. Không nhìn, ông e hèm và hỏi:

- Thằng nào vào nghịch ngợm gì đấy?

Tôi sợ phát khiếp, nhưng cố bạo dạn:

- Thưa ông, cháu  đến xin mượn ông truyện để đọc ạ!

Ông ngồi phắt dậy, lườm tôi qua cặp kính lão:

- Mày tên gì, con cái nhà ai?

     Tôi hoảng thực sự đã tính bài chuồn, nhưng trót vào đây rồi, cố liều thêm lần nữa nên trả lời ông đầu đuôi.

- Ừ, thằng này khá! - Ông bất ngờ khen - Nhưng mượn truyện tao phải có nguyên tắc, nếu không đồng ý thì đi ngay.

- Dạ cháu hứa không làm rách, trả đúng hẹn...

Ông chợt quát lên:

- Lẻo mép! Nghe đây, đọc xong phải kể tao nghe, kể thiếu, kể sai hôm sau thôi.

Nghe vậy tôi cũng hơi sợ, nhưng khi ngước nhìn hàng trăm cuốn truyện ông xếp trong tủ “ngon” như những khoanh giò lụa trên đĩa thì lại thấy tiếc, nên quyết định hứa:

- Cháu đồng ý ạ!

     Ông ngạc nhiên, lườm tôi từ đầu đến chân rồi vẫy tay. Tôi vội vã theo ông chọn truyện. Đưa tôi đi dọc hai giá sách dài, ông hướng dẫn:

  • Đọc bộ nào thì phải đọc từ đầu đến cuối. Lấy sợi dây hoặc cọng rơm để đánh dấu chỗ đọc dở...

Tôi vâng dạ cho qua chuyện vì mắt còn dán vào những bìa sách và lòng thì sợ ông không cho mượn nữa. Cuối cùng thì tôi cũng cầm được cuốn "Tam quốc diễn nghĩa" tập 1. Tôi cho nó vào trong áo, túm chặt, chào ông rồi chạy như bay về nhà.

Ngồi trên chiếc võng đay rách vắt ngang cành mít, tôi đọc một mạch hết veo. Tôi bình tĩnh đọc lại lần nữa. Tụi trẻ con chơi bi ở dưới nhìn thấy, nhao lên:

- Ê, anh ơi kể chuyện cho chúng em nghe đi.

Tôi tụt xuống. Bọn trẻ vây quanh há hốc mồm nghe. Những đoạn phi ngựa múa gươm thằng thì mồm méo đi, thằng thì tay chân vung lên đạp tứ tung rồi cười khoái trá. Có nhiều chỗ tôi quên thì mở ra đọc lại rồi chú thích cho bọn trẻ, có khi làm điệu bộ nữa chúng thích thú lắm.

Đêm ấy tôi mơ ngủ toàn thấy Quan Vân Trường cỡi ngựa đánh nhau. Sáng sớm mẹ đánh thức tôi dậy và bảo:

- Con mơ gì mà chân tay cứ đập ầm ầm xuống giường suốt đêm?

Tôi giật mình nhớ ra đã hứa trả chuyện nên vội đánh trống lảng cho qua rồi dấu sách chạy một mạch đến nhà ông Kiệt. Ông đang ngồi ăn sáng. Gắp một miếng dưa cải củ chấm vào bát mắm cáy ông ra lệnh:

 - Kể đi !

Tôi thao thao bất tuyệt kể, đôi khi xen vào bình luận một cách ngây thơ "Trương Phi y hệt chú Bảo bên cạnh nhà cháu, nóng như lửa mất hết khôn", "Quan Vân Trường mặt đỏ sẽ là trung thần, cháu xem tuồng các ông mặt đỏ đều thế cả"...

Ông buông bát cơm xuống nhìn tôi rất lâu, sau đó lặng lẽ vào cầm tiếp tập 2 cho tôi. Ba tháng hè tôi liên tục đọc sách của ông. Có hôm tôi ốm, ông chống gậy mang sách vào tận nhà và mua cho tôi một cái bánh đa. Dần dần tôi và ông thân nhau. Buổi trưa ông dặn tôi ra nghe "Đài tiếng nói Việt Nam". Thực ra nó là cái Galen tròn bé như hộp phấn mà phụ nữ hay cầm theo bây giờ, nói ọ ẹ nhưng vẫn nghe được. Ngày ấy tôi kinh ngạc lắm, cứ hỏi ông người nói ngồi vào chỗ nào trong cái “hộp phấn” ấy? Ông bảo nó nói từ Hà Nội truyền bằng điện về đấy. Tôi đâm sùng bái ông vì sự hiểu biết. Đi đâu tôi cũng ca ngợi ông hết lời, không ngờ thằng Canh bạn tôi nói:

- Truyện ông Kiệt không hay, đọc mỏi mắt và khó hiểu lắm, tao thích nhất nghe chuyện Ty Hênh.

Tôi vội hỏi:

- Nhà ông ấy ở đâu? Ông ấy có cho mượn truyện không?

- Tao chẳng biết, nhưng nghe chuyện ông ấy khoái lắm cứ là cười bò ra. Ông ấy ngày nào cũng đi câu ếch - thằng Canh trả lời.

 Từ lúc ấy đầu óc tôi cứ nghĩ về ông Ty Hênh. Một hôm tôi và ông Kiệt ngồi vãn chuyện, tôi nghĩ các ông cùng mê truyện chắc biết nhau, nên dò hỏi:

- Ông có biết Ông Ty Hênh không ạ? Cháu nghe nói ông ấy kể chuyện hay lắm!

Không ngờ ông Kiệt quát lên :

- Vớ vẩn, lão Ty Hênh kể toàn truyện bịa thô thiển. Mày học giỏi lắm đừng có mà vướng vào là hỏng người đấy. Mày xem có nhà văn nào là Ty Hênh không?

Tôi chẳng dám cãi, vì lỡ ông không cho mượn truyện nữa thì chết! Nhưng vô tình, ông đã kích thích trí tò mò của tôi. Vào một buổi chiều, tôi thấy một ông lão câu ếch đang rung rung cần trong bụi dứa dại trước nhà. Nhớ lời thằng bạn, tôi đi ra chào ông và hỏi:

- Thưa, ông có phải là ông Ty Hênh không?

Ông lão cười tinh quái, nhìn tôi:

- Mày con nhà ai? Tên gì?

"Y hệt câu hỏi ông Kiệt, họ giống nhau thật" - Tôi nghĩ và lại trả lời ông đầy đủ. Sau đó hỏi dò:

- Nhà ông chắc có nhiều truyện? cho cháu mượn đọc với được không?

Ông lão cười ngất, vỗ vào bụng:

- Nhiều bằng mấy lần nhà lão Kiệt, nhưng tao sợ ẩm mốc và chuột gặm nên đốt ra hoà nước uống xếp hết vào trong bụng rồi. Khi nào muốn dùng thì lại lôi ra.

Tôi tiếc ngẩn người. Ông liếc tôi và cười ha hả khoái chí, làm tôi cũng cười theo. Vừa lúc ấy ông giật cần rồi cuộn vòng cước lại. Một chú ếch bé tí tẹo mắc câu.

- Con ếch bé xíu ông vứt đi thôi - tôi đề nghị.

Ông trừng mắt:

- Vứt là vứt thế nào, đây là con ếch hoàng tử đấy!

Tôi vô cùng ngạc nhiên. Ông nhìn tôi nghiêm túc kể :

- Ngày trước, hình như năm xưa... tao câu được một con ếch chúa. Chuyện là thế này, hôm ấy tao đi câu, chẳng biết ma xui quỷ khiến thế nào mà cả ngày không được một con ếch nào. Tức mình tao rẽ vào gò đất chòi ra giữa ao, cái ao bảy mẫu làng mình ấy, định đái một cái cho đỡ tức bụng. Tao không còn tin ở mắt mình nữa! Lạ quá, trâu nhà ai lại bơi ra tận đây và ỉa một bãi to như cái nón? Tao đang tự hỏi như vậy thì thấy bãi cứt trâu ấy phập phồng, phập phồng... Tao đâm hoảng, hay ma hiện giữa ban ngày? Đúng lúc tao định chạy thì một giọng vang lên: Ốp-ộp! Ốp-ộp!.. Ôi chao, tao câu ếch từ nhỏ nhưng chưa bao giờ nghe thấy cái giọng vang ngân sang trọng như vậy. Đích thị là con ếch rồi! Con này thuộc hàng vua chúa chứ chẳng chơi. Nghĩ vậy tao nhào cả người vào vồ. Mày biết không nó gồng mình lên và vút xuống ao. Tao bám chặt và nó cứ cõng tao bơi dọc ao vùng vẫy. Cuối cùng nó nhọc lên ép tao vào bờ tre. Tao bèn thả bát cước câu ra quấn lung tung vào khắp người nó và giữ nguyên như vậy ở dưới ao. Đến tối sẫm người làng đi làm về tao gọi mấy người trợ giúp mới mang được nó lên, xỏ vào bắp cày khiêng về. May đúng dịp tết đoan ngọ nhà nghèo không có gì, tao bảo bà lão nhà tao cắt tiết làm thịt. Đúng ba mâm cỗ to đủ các món. Riêng món lòng cho tý đỗ, rau thơm nhồi mỡ của nó vào rán qua thì ôi thôi cứ như lòng chó!

Tôi bỗng nhiên tứa nước miếng. Nhưng nhìn vào con ếch còm ông vừa câu, cố gạ ông để moi bí mật:

- Con này chỉ được mỗi miếng thôi.

- Bậy nào! - Ông nói - Mai đến nhà tao, nhà kia, ở tay trái cây si ấy chừng trăm mét quành qua hai bụi tre và một bụi xương rồng là đến. Ông chợt thầm thì - Hoàng tử ếch sẽ gọi các cận thần đến... nộp mạng! Và tao mỗi tháng chỉ đi câu một lần chả phải làm gì - Rồi ông ghé miệng vào giỏ hỏi:

- Thưa có đúng không hoàng tử?

Trong giỏ quả nhiên vọng ra tiếng ộp!ộp! như trả lời vậy.

Tôi đâm ra mơ hồ.

 

 Chiều muộn hôm sau, khi học bài xong tôi chạy một mạch xuống chỗ cây si. Theo đúng đường ông chỉ, quả thấy một ngôi nhà rạ bé như cái chuồng chim chìm trong vườn chuối và ngay sát một nhà hàng xóm có cây mít to khổng lồ. Nhìn thấy tôi, ông vẫy tay. Tôi nhào vào chỉ muốn xem hoàng tử ếch gọi cận thần như thế nào. Nhìn vẻ mặt tôi ông bảo:

- Bình tĩnh, ăn mít đã nhé! Mít này của nhà tao đấy, giống Hà Nam quả to như cái giành đựng thóc.

     Tôi ngó lại, rõ ràng nhà ông chỉ toàn chuối, bèn buột miệng:

- Hay ông ăn trộm của nhà bên cạnh?

Ông cười:

- Cái lão hàng xóm ky bo lắm, mày nhìn nó quây rào thế kia bố thằng trộm cũng chịu nữa là tao. Nhưng "vỏ quýt dày có móng tay nhọn". Tao lấy mít của nhà nó mà nó đành ngậm miệng, thế mới cao tay.

Tôi ngớ ra chẳng hiểu gì. Ông giảng giải:

- Này nhé, "đất giăng dây cây cắm sào" đúng không? Nhà lão kia muốn chơi đểu nên trồng cây mít sát tường nhà tao. Ai ngờ gốc cây vằn lên hai cái rễ và từ đấy quả mọc ra cực to, to lắm vì nó là quả gốc lại không có ong bướm bay vào châm chích nên ngọt như đường phèn. Mày vào đây giúp tao khiêng quả mít nào!

     Tôi đi vào, mùi mít chín bốc lên thơm nựng. Trong cái căn buồng chật chội quả mít được bọc rơm kỹ. Ông cúi xuống lạch xạch như cắt cuống rồi vần ra. Tôi cố kiễng chân và nhìn thấy rõ cái rễ mít quả nhiên vồng lên như hai con rắn to vậy. Ăn mít xong tôi mới chợt nhớ ra, mục đích tôi đến đây là gì, bèn hỏi ông về chuyện ấy. Ông cười khà khà, đưa tôi cái lá mướp. Tôi trố mắt ngạc nhiên, ông bảo:

- Lá mướp kỵ nhựa mít. Ăn mít xong lấy lá mướp lau, hoặc vò tay vào thùng gạo thì không còn tý nhựa nào nghe không?

Tôi lau, và quả đúng lời ông, không còn tí nhựa nào. Ông vẫy tay, đưa tôi ra vườn chuối. Khi mở cái nắp hố, chao ơi! Tôi không còn tin vào mắt mình nữa. Dưới lòng hố sâu thum thủm mùi nước vo gạo, hàng trăm con ếch lớn nhỏ nhảy lỗm chỗm giương mắt nhìn. Khoái trá vì vẻ mặt như đần ra của tôi, ông bình thản nâng ống điếu, kéo một hơi thuốc lào  phà ra một luồng khói trắng và kể:

- Hoàng tử ếch chỉ cần kêu một tiếng là hàng nghìn con lao ra ngoài ruộng, ngoài ao, tập trung đợi lệnh hết. Mày không tin, đêm nay thế nào cũng mưa to  sẽ nghe tiếng kêu ầm ĩ của bọn lính ếch...

*

Tôi vẫn dành nhiều thời gian sau khi học bài để “ngốn” cái kho truyện của ông Kiệt, nhưng dần dà những cuốn truyện và những tập sách khác sau đó, trở nên xa lạ với tuổi ấu thơ của tôi. Lúc ấy nhà ông Ty Hênh là nơi tôi thường lui đến và những câu chuyện của ông cuốn tôi trôi theo dòng tưởng tượng phóng khoáng, gần gũi với đời thường và đặc biệt là những chuỗi tiếng cười. Thấm thoắt đã mấy năm trôi qua, tôi nhớ vào một chiều đầu tháng Năm, lúc ấy tôi đang ôn thi lớp 7, khi mệt quá định buông sách thì nghe ngoài vườn nhà có tiếng của chú Bảo:

- Cái lão Ty Hênh làng mình kể cũng được. Hắn nói phét thành thần mà ai cũng tin. Nghe xong biết lão bịa nhưng rồi lần sau lại muốn nghe tiếp. Ấy nhân anh em ăn dưa hấu, tôi kể câu chuyện về “dưa mật ong” của lão...  rồi lời kể, lời bàn và tiếng cười sảng khoái vang lên...

Chợt nhớ buổi sáng thằng Canh, bạn tôi có nói: “lão Ty Hênh dặn mày chiều học xong xuống nhà lão, lão cho mày cái gì ấy”. Tôi vội vàng lao thẳng xuống, lòng mừng rỡ khôn tả. Ông Ty Hênh đón tôi bằng cái nháy mắt ranh mãnh và nói như ra lệnh:

- Tao cuốc, mày đào hôm nay thả hoàng tử ếch, thả hết cả họ hàng nhà ếch nữa.

Tôi còn đang ngơ ngác không hiểu chuyện gì thì ông nói như giảng giải: ếch là giống có lợi cho mùa màng, ngày trước đói quá cứ bắt được là con nhỏ thì ăn, con to đem bán. Cứ làm thế mãi chúng sẽ tuyệt giống mất. Mà này, loài ếch vừa là bác sĩ vừa là nhạc sĩ của ruộng đồng đấy! Hôm nay phóng sinh cho chúng...

Hàng trăm con ếch nhảy lộp chộp qua sân nhào ra ruộng. Có một con nhỏ dừng lại giương cặp mắt long lanh nhìn chúng tôi mãi không chịu đi. Ông phẩy tay: “Thôi đi đi Hoàng tử, lão không giữ nữa, tối nay có mưa to, tha hồ mà nhảy múa, hát ca”.

Chúng tôi ngồi trên chiếc chõng tre, sau rất nhiều lần rít thuốc và trút những hơi khói như đẩy ra những màn sương mờ đục quánh lại bao năm ở trong lòng, ông nói giọng rất lạ và không xưng “tao, mày” nữa:

- Ông có một cái cần câu rất “sát” cá và ếch, nay tặng cho cháu, sau này khi rảnh rỗi cháu đi câu cho thư giãn đầu óc. Không phải ông truyền nghề câu đâu, cháu phải học giỏi giúp người làng mình chứ đừng như ông...

Ông dúi vào tay tôi chiếc cần, bát cước và chùm lưỡi câu đã ngả màu thời gian óng lên trong nắng chiều. Nhìn cặp mắt ngấn nước của ông tôi định từ chối, nhưng ông đã đẩy vai tôi:

- Cháu về đi, sắp có dông lớn. Đấy chớp đằng đông nhoáng nhoáng rồi đấy...

 

 

      Buổi tối ấy, trời oi nồng. Phía đằng đông chớp vọt cày quất liên tiếp những nhát nhằng nhịt loá mắt lên nền trời. Tôi nằm trằn trọc mãi đến nửa đêm mới chợp mắt. Được một lát bỗng nghe tiếng sét nổ và mưa lộp bộp, sau đó là mưa ào ạt, một luồng hơi nước phả vào mát lạnh làm tôi tỉnh giấc. Ngoài hiên nước chảy thành tua theo mái rạ. Mặt sân ngầu bong bóng trắng mờ mờ. Mẹ khoác áo tơi quấn lại chiếc rua hứng nước vào cái ang đất.

   Tôi nói với bố lúc ấy đang cố gắng che gió cho chiếc đèn dầu Hoa kỳ:

- Bố cho con mượn áo đi bắt ếch. Đêm nay hoàng tử ếch gọi đàn về đầy ruộng chỉ việc nhặt bỏ giỏ thôi.

Bố trố mắt nhìn tôi chằm chặp còn mẹ từ ngoài sân vào thì rũ ra cười:

- Thôi chết!... thằng này thành cháu ông Ty Hênh rồi.

     Đến lúc bố cười ngất. Tôi chẳng hiểu gì, nhưng nghe bố mẹ và lên giường ngủ tiếp trong tiếng mưa rào ào ạt và tiếng ếch inh uôm.

     Tôi không ngờ, đêm hôm ấy ông Ty Hênh qua đời. Ông mất ngay trên bờ ruộng với một cái giỏ rỗng và không có hom đậy. Người làng tôi xì xầm rằng do ông kể chuyện hay quá nên vua Thuỷ Tề sai con làm ra trận mưa sấm chớp đêm qua bắt ông về thuỷ cung để chuyên kể chuyện cười cho vua. Tôi thì nghĩ "hoàng tử ếch đã đưa quân đến rước ông về để thưởng vàng bạc, bởi ông đã phóng sinh họ".

 Mấy hôm sau, tôi đến nhà Ông Kiệt, thấy mắt ông đỏ mọng. Ông vẫy tôi lại hỏi:

- Hôm trước cháu có đi đưa đám lão Ty Hênh không?

- Dạ có ạ! - Tôi thưa.

- Buồn nhỉ! Lão đi cũng thanh thản không biết bao giờ mới đến lượt ông?

Rồi Ông quay sang tôi nói nhẹ nhàng:

- Ông cho cháu tất cả kho sách cổ này, mang về giữ gìn mà đọc. Nó sẽ giúp ích cho cháu rất nhiều. Ông chỉ có một điều kiện là khi đọc xong sang kể cho Ông nghe và nêu nhận xét của cháu. Những nhận xét của cháu ông rất thích. Ông dường như đã thay đổi hẳn. Cũng như ông Ty Hênh, ông không xưng "tao, mày" trầm hẳn đi. Tôi đưa sách về nhà xếp kín cái ghế băng và một nửa giường. Bố mẹ tôi sang cảm ơn ông. Ông nói:

- Không có gì, cái làng này, thằng bé nhà anh chị có thể làm nên nghiệp hãy chú ý đến nó. Tôi chỉ có đống sách cho nó thôi.

     Một tháng sau, ông ra đi theo ông Ty Hênh.

Tôi buồn nhớ hai ông lão một thời gian khá dài, những lúc ấy lại chìm vào trong kho truyện, hoặc ngồi nhớ những câu chuyện ông Ty Hênh kể rồi cười một mình. Nhiều lúc nghĩ, không biết mình quý ông nào hơn cũng như truyện của hai ông đã cho tôi loại truyện nào mà mình thích hơn? Tôi chép miệng:   Người ta cứ gọi gió đông, gió tây, nhưng rốt cục gió nào chả bay ngang trời...

 Rồi nỗi nhớ và những suy nghĩ vẩn vơ trẻ con ấy cũng qua đi, tôi thành người kể chuyện của làng, đặc biệt uy tín với lũ trẻ con. Chúng ngưỡng mộ tôi lắm vì tôi sở hữu một kho truyện lớn và sẵn sàng phục vụ chúng. Tôi tự hào và hơi kiêu về điều đó, nhưng thằng Canh bạn tôi không phục. Một hôm, trước đám trẻ đang chờ tôi kể chuyện, nó bảo:

- Chuyện mày kể thì hay, nhưng phải giảng giải chúng tao mới hiểu, đau đầu lắm.

Tôi tức mình quát lên: Thế mày kể đi xem nào?

Không ngờ thằng Canh ngồi xếp bằng lại, kể ngay - Đêm hôm qua tao đang ngủ thì bố tao hớt hải chạy về gọi "Con ra giúp bố khiêng con trâu về ngay"- nó hắng giọng cho ra vẻ, rồi kể tiếp - Mặc dù ngái ngủ và chẳng hiểu gì nhưng tao đi liền. Đến bờ sông, nhìn rõ con trâu đang gồng mình vật lộn như điên vậy. Tao ngơ ngác nhìn, bố vội nói: "Bố mượn trâu trộm đi bừa ruộng vì chờ đến phiên trâu nhà mình thì hỏng hết thời vụ". Con trâu nhà ông Bảo chúng mày biết rồi đó, "tai lá mít đít lồng bàn" hẳn hoi và bốn chân như bốn cái cột đình nhá! Thế mà như bị gìm xuống sông.

Thằng bạn dừng lại. Bọn trẻ con nhao nhao:

- Nó bị dắt chân vào khe đá à? - Thằng Canh lắc đầu.

- Tao biết rồi nó bị bố mày phang gãy chân? - Thằng Canh vẫn lắc đầu.

Tôi bị hút vào câu chuyện từ lúc nào ngứa tiết quát lên:

- Ngu thế, đó là do con cá chép cụ nó đớp nuốt chân vào bụng.

Thằng bạn tôi mắt sáng lên:

- Ừ mày giỏi thật con cá chép cụ đấy - tao kể tiếp nhé - thế là tao lặn xuống. Cái đuôi nó to như hai cái quạt mo quất vào mặt tao một cái bay ra giữa sông. May tao bơi giỏi nên mới thoát chết. Tao vội ngoi lên bảo:

- Bố đưa con cái bừa!

Tao cầm cái bừa xuống, alêhấp! Lấy hết sức ấn các mũi bừa vào mép nó. Lúc ấy mồm nó đang ngậm chặt cái chân trâu. Ôi giời ơi! Cái râu của nó to bằng cái chão ấy quất tao một cái vào mạng sườn đau điếng. Đây này vẫn còn nốt đỏ, nó vén bụng lên rõ ràng một vết bầm chạy vòng xương sườn. Đám trẻ xanh mắt, còn  tôi phì cười vì biết chắc, đó là vết chão bố nó quật cho tối qua vì tội mải chơi nấu cơm muộn.

- Mày cười gì - nó quát lên. Tôi đành im lặng.

Canh kể tiếp - Tao nghĩ con cá này thành tinh rồi bèn lấy khẩu súng trường K44 lên cò "Roách"!...

- Khoan - một đứa hỏi - mày lấy súng ở đâu? Nói phét!

Tôi vội đỡ cho Canh: - Súng của bố tao, tao mang ra vì tao đã gặp con cá thành tinh ấy rồi, khi bố nó chạy qua nhà tao đã kể tao biết.

     Thằng Canh lườm lũ trẻ một lượt như cảnh cáo: "Bố nó là xã đội trưởng, đầy súng, tin chưa?" - rồi tiếp - "Roách"! xong, tao dí vào mắt nó. Mà này mắt nó to như cái bát ôtô, nổ "bùm"!

Bọn trẻ giật nảy mình, còn thằng Canh tỉnh queo:

- Mắt cá vỡ đổ ra như mực làm sông đen thẫm. Lúc ấy con trâu mới thoát ra được. Hai bố con tao và mày nhỉ ? (nó quay sang tôi cười nịnh) - ba người chạy tìm dọc sông thì thấy một cái thuyền trắng phớ nổi lên. Trong khi bố tắm và băng vết thương cho con trâu, chúng tao bơi ra xem thì đó là con cá đã chết. Hai thằng ngủ trên đó một giấc đến gần sáng. Sướng lắm! Thân cá mát lạnh và bồng bềnh như võng. Sau đó, chúng tao dìu con cá vào bờ rồi ì ạch vần lên lưng trâu đem về. Tao chỉ sợ con trâu gẫy xương vì đến gần chuồng nó khuỵ xuống một phát.

Một đứa trẻ nói:

- Thảo nào sáng sớm em dắt trâu qua ngõ nhà anh đã ngửi thấy mùi cá kho. Trưa nay em sang anh cho em một “mướng” nhé !

- Ừ tao cho tất, không ăn nhanh thì nó cũng thiu mất. Thôi giờ về giúp bố mẹ đi! - Thằng Canh nói tỉnh queo, rồi tất cả giải tán.

     Từ đó, thằng Canh thế vai tôi và chuyên kể những “câu chuyện Ty Hênh”. Tôi hoá ra thành đệ tử của nó, lúc nào nó bí lại kịp thời bịa ra cái ý hỗ trợ nó ngay. Những đêm sáng trăng sân nhà thằng Canh chật kín ngưòi, bởi sân nhà nó rộng mát và lại lát gạch, nên hay họp Đội sản xuất ở đó. Cứ tan họp là thằng Canh lại kể và tiếng cười của làng tưởng rung cả trăng khuya./.


Nguồn Văn nghệ số 39/2018


Có thể bạn quan tâm