Mùa thu năm 1982, nhận lời mời của Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các hội văn học - nghệ thuật Việt Nam, nhà thơ Helmut Preissler đã sang thăm nước ta một tháng và sáng tác 75 bài thơ về những nơi ông đã đến, sau đó được Nhà xuất bản Cuộc sống mới (Neues Leben) cho in thành tập NHỮNG HẠT SEN, được dư luận hoan nghênh và đón đọc. Có thể nói, trong những tập thơ của các tác giả Đức viết về Việt Nam, đây là tác phẩm dầy dặn và phong phú nhất. Sách in bìa cứng, kèm theo trên 30 ảnh do Võ An Ninh, Thomas Bilhardt và chính tác giả chụp về đất nước ta.
Helmut Preissler (1925-2010) |
Helmut Preissler là một trong những nhà thơ tiêu biểu nhất thuộc thế hệ trưởng thành dưới chế độ xã hội chủ nghĩa ở Cộng hòa Dân chủ Đức trước đây. Ông sinh năm 1925 tại thành phố Cottbus ở miền Đông nước Đức, từng là giáo viên một trường phổ thông trung học, cán bộ văn hóa của công đoàn địa phương, theo học và trợ giảng tại Học viện văn học “Johannes R.Becher” (Leipzig) tiếp đó công tác tại Nhà hát Kleist, rồi làm chuyên viên đặc trách về văn hóa của Hội đồng nhân dân thành phố Frank furt/ Oder. 10 năm trước khi nghỉ hưu (1966-1975), ông là biên tập viên ban thơ của tạp chí VĂN HỌC ĐỨC MỚI (NDL) của Hội nhà văn CHDC Đức. Năm 2010, ông qua đời tại thành phố quê hương ông, để lại một khối lượng sáng tác văn học đồ sộ với 35 tác phẩm gồm thơ ca, bút ký và truyện viết cho trẻ em. Ông đã được trao tặng nhiều giải thưởng văn học cao quí, như Giải thưởng Heinrich Heine (1966) và Giải thưởng Quốc gia (1971)...
Tập thơ Những hạt sen được giới phê bình văn học đánh giá như một mốc lớn trong cuộc đời sáng tác của Helmut Preissler, được xếp ngang hàng với các tập thơ trước đó và sau đó của ông: Giữa những ngọn cỏ và các vì sao (1963), Sống cùng em (1988); Trái đất thở mầu xanh (1988). Tuy nhiên, về sự nghiệp của Preissler, trước hết phải nói đến tập: Những tiếng nói (tập hợp từ các tập Những tiếng nói của người đã khuất, Những tiếng nói của người đang sống, Những tiếng nói từ các đội lao động xã hội chủ nghĩa, Những tiếng nói của kẻ hậu sinh đã lần lượt ra đời từ thập kỷ 60 của thế kỷ trước đến trước khi ông qua đời).
Dưới đây là một chùm thơ viết về Việt Nam của ông.
Hạt sen
Hạt của bông sen
Cũng như hạt quả hồ đào
Trong lòng sen tỏa hương ngào ngạt
Được giữ gìn mãi mãi về sau...
Bông sen dịu dàng
Khi ánh lên, sen rỡ ràng và dịu nhạt
Sen sống tới một nghìn năm
Nếu như đất để yên cho nó sống.
Trên bờ ruộng cao
Trên bờ ruộng cao
Những cô con gái
Từng hàng nối nhau
Đôi tay tung lượn
Dây gầu vục sâu
Chiếc gầu lặn xuống
Bay lên, theo đà
Nước trào qua đập
Như ngàn sao sa
Lặn xuống, bay lên
Gầu không mệt mỏi
Những cô con gái
Chống hạn trên đồng
Nhịp tay uyển chuyển
Giữa trời mênh mông
Có mệt lắm không
Hỡi cô gái trẻ?
Mà sao vui thế
Tiếng sáo giữa đồng
Từ đây gầu hát
Hay tự đáy lòng?
Ca ngợi tre
Người nông dân sẽ ra sao
Nếu không có tre ?
Anh ta sẽ không có những ngôi nhà
Con anh sẽ không có nôi
Sẽ không có rổ rá
Không có thúng mủng dần sàng
Không có đòn gánh dẻo dai...
Hàng sẽ khiêng nặng hơn
Nếu không có tre làm đòn gánh
Nhà sẽ vỡ tan
Nếu tre không dễ uốn.
Và sẽ không có cầu
Những nhịp cầu mầu xanh, tin cậy
Sẽ không có cần câu
Sẽ không có thuyền nan vững chắc.
Và nước sẽ không chảy
Vào làng,
Vào ống máng
Bằng tre.
Và con người sẽ làm sao biết
Về sự diệu kỳ của sáo
Về làn khói bốc cao
Của điếu cày.
Và trái đất
Sẽ khó thở hơn
Và bầu trời
Sẽ thiếu đi mầu xanh.
Trái đất sẽ ra sao
Nếu không có tre?
Tấm gương
Nửa đầu
Năm một nghìn chín trăm bốn mươi lăm
Nửa năm cuối cùng
Của Hoàng đế bù nhìn Bảo Đại
Hai triệu người Việt Nam
Chết đói
Vị Chủ tịch đầu tiên
Của chính quyền nhân dân
Kêu gọi:
“Ai còn đủ gạo ăn
Cứ mười ngày một lần
Nhường gạo cho người đói
Thương nhau nên bớt phần”
Chủ tịch Hồ Chí Minh
Viết ra lời kêu gọi
Và cũng chính là Người
Ngày thứ mười, nhịn đói
Năm đầu tiên
Của chính quyền cách mạng Việt Nam
Chủ tịch Hồ Chí Minh
Ngày thứ mười, nhịn ăn
Và nhịn ăn, tất cả các ngày thứ mười, sau đó...
Những bàn tay
Ôi, những bàn tay của các bạn tôi
Những bàn tay đầy nghị lực và diệu kỳ
Những bàn tay
Có thể đổi đời cho mọi vật vô tri
Những cọng rơm thành áo quần, túi xách
Thành khăn quàng và chăn đắp mùa đông
Những khúc tre thành ghế bành, ống sáo
Thành thuyền bè và cầu bắc qua sông
Bao vại, hũ có cuộc đời từ đất
Đất cũng thành ông phỗng và con giống cho trẻ vui chung
Bao tiếng ngân từ cỗ đàn bằng đá
Đồng qua tay ai kéo đúc nên cồng
Tôi đã nghe
Từ tay các bạn tôi
Âm thanh diệu kỳ của cây đàn đá
Và tôi cũng đã thấy
Những bàn tay ấy
Thận trọng
Cần cù
Điều khiển những cỗ máy khổng lồ
Tuy còn chưa có đủ.
Văn Miếu ở Hà Nội
Trước Văn Miếu Quốc tử giám
trên lưng rùa
dựng lên
những tấm bảng đá
như bia tưởng nhớ
những người đi xa...
Dựng lên cho người sống
Cứ ba năm một lần
Tên người và tác phẩm
Những người thắng trong các cuộc đua
Qua bao thế kỷ -
những bác học và những thi nhân
Những tấm bảng đá
Như bia tưởng nhớ
những người đi xa
Nối tiếp nhau qua nhiều thế kỷ
để tôn vinh tài năng và thi ca
như những chú rùa sống mãi.
Trong bảo tàng mỹ thuật Hà Nội
Một bức tranh
lôi cuốn tôi
Bác Hồ Chí Minh với ba cháu nhỏ
mầu thẫm đỏ
trên lụa trắng
Người ta kể rằng
trên cao nguyên năm 47
họa sĩ không có mầu để vẽ.
Trên núi rừng Việt Bắc
Và Đồng Tháp bưng biền
Có đôi người Đức
Cùng sống trong các ngôi nhà ngụy trang
Với các chiến sĩ -
Trong đó có người họa sĩ
Thiếu vải và mầu
đã lấy máu mình
vẽ lên vải dù của Pháp
những con người mà anh rất yêu.
Hà Nội về khuya
Cơn nóng nực chừng như bất động
trên những đường phố tối tăm
trong những đợt sóng bổng trầm
tiếng hát ve sầu
cất lên, hạ xuống.
Tiếng ồn ã của các em đã qua
Làn sóng người trên xe đạp đã qua
Những ngọn đèn dầu bên hàng quán đã tắt
Sự lặng im bao bọc lấy tôi.
Tôi được chở che
yên ổn
dưới bức màn tránh muỗi
chiếc quạt
quay
quay
những đường tròn của nó.
Trên sông Hồng
Một dòng vô tận
những xe cút kít, xe tay
nối duôi nhau
trên những nhịp cầu
bao lần sửa lại.
Dưới xa kia
trước làn gió rã rời
những chiếc thuyền mành
đẩy những cánh buồm chằng chịt đường khâu
đẫm sắc mầu
như những cánh buồm.
Hoa phượng đỏ ở Hải Phòng
Trong sự nóng nực của ngày
những hàng cây bốc lửa
trên các nẻo đường
trên các bãi, sân
Bầu trời cháy lên.
Thành phố
nằm trong làn hơi nặng trĩu
nằm trên những vồng hoa
Hoàng hôn buông dần.
Hệt như tiếng kêu cấp cứu
sau những cơn gió lạnh dần
vang lên tiếng kêu nóng bỏng
những con tầu
từ phía cảng.
Trần Đương (Dịch và giới thiệu)
Nguồn Văn nghệ số 13/2020