April 26, 2024, 7:24 am

NGHỆ THUẬT NGHỊCH DỊ HAY LÀ SỰ TÁI SINH CỦA TINH THẦN DÂN CHỦ VÀ CẢM THỨC NHÂN VĂN

Đây là công trình đầu tiên về nghệ thuật nghịch dị của tiểu thuyết ở Việt Nam, một đề tài hay và khó. Nghịch dị/ grotesque hay còn gọi là kỳ quặc, thô kệch, trước hết là thế giới quan, là nghệ thuật, là thủ pháp. Đó là một kiểu tổ chức hình tượng nghệ thuật dựa vào huyễn tưởng, tiếng cười, sự phóng đại, lối kết hợp và tương phản một cách kì quặc cái huyễn hoặc với cái thực, cái đẹp với cái xấu, cái bi với cái hài, là sự hòa trộn của cái hài với cái kinh dị, cái giống như thực với cái biếm họa, bình thường và bất thường, lạ lùng, kì quặc. Nó công nhiên và chú ý trình bày một thế giới dị thường, trái tự nhiên. Hạt nhân quan trọng nhất của nó là tính lưỡng trị, tính nước đôi, tính chưa hoàn kết.

Tác giả Huỳnh Thu Hậu đã nhạy bén và nắm bắt hiện thực nghịch dị trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại và mạnh dạn đi vào vùng đối tượng “ngoại biên” này để nắm bắt vấn đề và giải mã vấn đề một cách mới mẻ, theo tâm thức và cảm quan phê bình hiện đại, một phần hậu hiện đại. Thông qua đó, tác giả chứng minh sự hồi sinh mạnh mẽ của nghệ thuật nghịch dị trong tiểu thuyết nói riêng, văn học Việt Nam đương đại nói chung và xem đó là sản phẩm của tinh thần dân chủ, tinh thần đổi mới tư duy, đổi mới nhận thức của xã hội và của văn học bằng tiếng nói nghệ thuật đa dạng và độc sáng. 

Thành công tổng thể của công trình là tác giả đã nắm vững đặc trưng thể loại tiểu thuyết và nghệ thuật nghịch dị, nghệ thuật trào tiếu bằng cái nhìn liên văn hóa, liên văn bản nên giải mã vấn đề một cách thuyết phục, khoa học xét ở tầm đón nhận đương đại mà Mỹ học tiếp nhận văn học quan tâm. Tác giả đánh giá được “vai trò to lớn của nghệ thuật nghịch dị đối với sự đổi mới của văn học Việt Nam nói chung và tiểu thuyết nói riêng, góp phần đổi mới quan niệm về hiện thực, về con người, về thể loại. Có thể khẳng định rằng, có dòng tiểu thuyết nghịch dị bên cạnh những khuynh hướng tiểu thuyết khác. Qua đó, hướng đến đổi mới hệ hình mĩ học truyền thống qua lằn ranh của nghịch dị với tiếng cười, kì ảo, kinh dị, quái dị”.

Tác giả cũng đã làm rõ nghịch dị với các khái niệm liên quan, và phân biệt lằn ranh của các khái niệm nghịch dị (grotesque) và kì ảo (fantastic) để phóng chiếu tương thích vào tiểu thuyết Việt Nam đương đại. Tác giả minh định rằng: “Muốn biết đó là nghịch dị hay kì ảo thì phải xem cấu trúc tổng thể mà nó được đặt vào (và ở đây đang nhìn từ góc độ cấu trúc luận) nếu nó tạo ra một hiệu ứng hoang mang nơi người đọc thì đó là Kì ảo. Và nếu nó gắn với tiếng cười (humour) và phóng đại thì đó là Grotesque. Đứng ở góc độ những lằn ranh văn học, chúng ta mạnh dạn quan niệm trong nghịch dị có kì ảo nhưng không phải kì ảo nào cũng là nghịch dị…”.

Sau khi khái lược chỉ ra quá trình phát triển của nghệ thuật nghịch dị trong văn học Việt Nam, từ truyền thống đến hiện đại, đặc biệt là trong tiểu thuyết của các nhà văn như: Vũ Trọng Phụng, Trần Dần, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái, Nguyễn Bình Phương…, tác giả khẳng định đây là mạch nguồn trong văn học dân tộc. Tìm hiểu sự biểu hiện của nghệ thuật nghịch dị qua hệ thống hình tượng nhân vật (những bức chân dung biếm họa, nhân vật nữ nghịch dị, nhân vật lệch pha giới), không gian (làng quê, lễ hội, thành thị và những mê cung, chiến tranh - nghịch dị sự sống), thời gian (thời gian quá khứ và lăng kính bất thường, bên ngoài thời gian hay cảm quan thời gian nghịch dị, thời gian xóa nhòa ranh giới giữa sinh thành và hủy diệt). Đồng thời, nghịch dị được bộc lộ qua phương thức thể hiện như ngôn ngữ (ngôn ngữ phố phường, ngôn ngữ mạng, ngôn ngữ trò chơi), giọng điệu (giễu nhại, tự trào, bất tín), biểu tượng (biểu tượng tính dục, biểu tượng giấc mơ, biểu tượng mê cung). Như vậy, tác giả đã xác định nghiên cứu nghịch dị không phải ở những yếu tố rời rạc, bộ phận mà là ở cấp độ tổng thể của nghệ thuật, tức cấp độ thể loại - cấp độ siêu ngôn ngữ. Những mục tiêu trọng tâm này được tác giả luận chứng một cách thuyết phục cho từng những luận điểm, luận cứ cụ thể bằng những trang viết hay, giàu cảm hứng và luận lý khoa học.

            Ở đây, tính lưỡng trị toàn vẹn về những mâu thuẫn chính yếu của tồn tại/ đối tượng/ hiện thực được các nhà văn quan tâm thể hiện thành những hình tượng nghịch dị đa dạng, với những cạnh khía đạo đức và nhân cách méo mó, dị dạng khác nhau như tác giả đã khái quát: “Nghịch dị gắn với những biểu hiện đời thường. Nó cũng bắt đầu có dấu hiệu sử dụng cả những yếu tố kì ảo, quái dị, gắn với tiếng cười, và phóng đại một hoặc một vài khía cạnh tính cách. Hiệu quả thẩm mĩ mà nó mang đến là khắc họa được sự tha hóa của con người đương thời, những bi kịch mang tính chất thời đại, sự đảo lộn của mọi giá trị truyền thống, con người chênh vênh trong trò chơi cùng cái hỗn loạn, con người cô đơn, mặc cảm, khao khát được giải phóng toàn triệt cảm xúc bản năng, nổi loạn chống lại mọi cái giả dối, thấp hèn, xấu xa, lí tính xơ cứng, nhàm chán…”. Hơn thế nữa, tác giả còn chỉ ra hiệu quả nghệ thuật của hình tượng nghệ thuật nghịch dị trong xây dựng nhân vật, kể cả nhân vật tự giễu nhại chính mình, là “góp phần thể hiện tinh thần đổi mới quan niệm về hiện thực, quan niệm về con người trong văn học. Hình tượng nhân vật trong tiểu thuyết đương đại Việt Nam cũng được soi chiếu ở phương diện con người vật chất xác thịt, con người vô thức, bản năng. Kiến tạo con người vật chất xác thịt không phải để hạ bệ hay giải thiêng hình tượng mà qua đó chạm đến những ngóc ngách vi diệu, mở rộng các phương diện để khám phá con người.”.

Vậy là, qua tiểu thuyết Việt Nam đương đại, nghịch dị mà các nhà văn miêu tả luôn có tính tính định hướng xã hội cụ thể, cho nên bên sau những hình tượng nghịch dị đó, chính là nỗi đau nhân tình, thế thái mang tính nhân đạo và triết lý cao đẹp, muốn con người có ý thức vươn lên tự điều chỉnh hành vi lựa chọn đạo đức và vươn lên hoàn thiện nhân cách của mình. Nhân tính phải được xem là chuẩn mực đạo đức tối thượng, luôn được quan tâm và thanh lọc hóa trong từng mối quan hệ từ đời tư nhỏ hẹp đến thế sự rộng lớn. Chính điều này mới thấy được chiều sâu của cái nhìn nghệ thuật, để đến một ngưỡng nào đó, hình thành nên tâm thức sáng tạo và cảm thức nhân bản.

 Nguồn Văn nghệ số 42/2018      

                                                                                     

 

  

 

 

 

 

 

 


Có thể bạn quan tâm