April 26, 2024, 10:15 pm

Đoài

    

  Thuở chớm lớn, Hiền từng buông câu xanh rờn rau diếp, yêu nhất màu xanh áo lính, sau này chỉ yêu người lính. Nhiều cậu đang trổ mã, tấp tểnh cưa tán, nghe, choáng, lặn mất tăm, bởi chẳng đủ tiêu chuẩn đi lính hay lánh qua đường học an thân thì ngóng gì cưa đổ Hiền. Hiền không hạng đẹp gái nhất làng như Ngần, nhưng kiếm đâu được mấy đứa rau rảu kháu như Hiền. Song chiến tranh như vòi rồng hút hết trai tráng ra trận, chưa ai nguyên lành trở về, ở giữa những cuộc chiến, lác đác thương binh về làng, làng An là anh Đoài, Hiền cũng chỉ được thần tượng anh trong tâm tưởng, vì người anh yêu chính là Ngần. Ngần hơn Hiền hai tuổi, gọi nhau tao mày, nhưng vai vế họ hàng, Hiền là chị Ngần. Ngày đất nước hòa một mối, hơn nửa trai làng ra đi đã nằm lại rải rác khắp chiến trường, trong số những người lính về làng, có cả bạn Đoài, Sanh, về thăm. Đoài bắc cầu, Hiền quen thân, cảm mến, yêu Sanh, sau làm đám cưới.

 

Minh hoạ của Vũ Đình Tuấn

       Hiền yêu thương chồng, nhưng sâu thẳm, mỗi khi nhìn thấy Đoài với cái dáng cao gầy lúc nào đi như lao về phía trước trong tấm quân phục bạc màu, lòng Hiền lại rưng rức xốn xang những cắc cớ xa xôi. Đi đâu, lúc nào, Đoài đều mặc áo lính, đã là sự mặc định trong mắt Hiền và mọi người, thành quen, nên có bữa, từ xa tít, thấp thoáng bóng áo xanh, mũ cối, gò lưng đạp xe, Hiền bảo chồng, khéo là anh Đoài đến chơi. Chồng không tin, bao người qua đường, kẻo nhận vơ. Khi xe đến cổng, Sanh nhìn rõ mặt thương tích của bạn chiến đấu xưa, tắc lỏm, mắt tinh, Hiền chẳng nói gì.

        Nhưng bất ngờ, tầm non trưa trước, lần đầu tiên Đoài không diện quân phục. Chiếc áo ca rô cũ, rộng thùng, ướt đẫm mồ hôi, dấp dính bụi đường khi anh gò lưng đạp xe đoạn đường dài gần hai chục cây số đến nhà Hiền, thằng bé con ngồi lắt léo phía sau.

         Tay Hiền run run, rót chén nước vối còn sớt ra ngoài. “Em mời anh uống nước”. Anh mở túi, hai chùm vải thiều đầu mùa chín mọng: “Mấy cây vải bói lứa đầu, sai trĩu!”.  Đức, con út Hiền vừa đi học về, thấy bác Đoài tới, sán lại. Đức suỵt soạt nhai nuốt vải ngọt chảy lịm cả sang bụng Hiền. Cầm theo tùm vải, Đức ngoắc tay Nghé, lên nhà chơi, hai chú cháu ríu nhau ngay.

      Lúc này, Hiền mới có dịp nhìn kĩ Đoài. Chừng sáu tháng không gặp mà anh già đi tới chục tuổi, mắt trũng sâu, nếp răn thành rãnh lún giữa trán, đuôi mắt, vết sẹo dọc má trái nhằng nhịt đỏ tía, ánh nhìn buồn rượi. Đôi bàn tay to bản da nhăn nheo rám nắng, gân guốc nổi dây thừng, những ngón tay xương xẩu xoa xoa chén nước vối: “Sanh đi bán cây phỏng ?”. Hiền thưa với anh, Sanh sang làng bên giao cây cho công trình người ta đặt gần trưa về, Hiền sẽ đi chợ nấu cơm. “Thôi, Hiền đừng chợ cho vất vả!”.

                                                                        *

         Cơn gió bấc đầu tiên tràn về không báo trước. Cây găng đầu làng bị gió táp, xoắn giật khâng khấc, lá rụng lả tả. Lũ học trò tan trường, nghịch, quơ lá ném nhau. Ngần bị thằng Bốc vốc nắm lá, cát phi thẳng vào mắt, cay xè, xót xáy, nhói nhức, kệnh cạng. Ngần tức, ném trả, Bốc đang nhe mồm cười, lá, cát phập vào mồm, toẹt ra. Bốc ho sặc sụa, ộc ọe, văng tục, nhè tên cúng cơm bố mẹ Ngần chửi. Phản pháo, Ngần cũng xướng tên ông bà bố mẹ Bốc. Bốc bửa, quay ra đạp một phát vào bụng Ngần, Ngần ngã dúi xuống mương. Hiền và Mai chạy lại, định kéo Ngần lên, Bốc gườm gườm, hăng máu cục: “Thích đạp cho phát phọt xuống mương nốt không?”. Hai đứa ghê người, tay thõng xuống. Bờ mương đất sét trơn trượt, nước bùn ngấm vào người, gió bấc thấu xương, môi răng Ngần run lập cập. Bỗng tiếng xe đạp phanh kít, giọng anh choai đầy uy lực: “Sao không kéo bạn lên?”. Bốc ù té chạy. Ngần nhơm nhớp, rét run như mèo nhúng nước khi Đoài đưa lên bờ. Hiền nhìn cảnh đó, lòng dâng đầy ngưỡng mộ. Đoài nạt cả lũ: “Chơi với nhau còn chửi nhau!”. Ngần cãi: “Tại nó chửi em trước”. Đoài cười xuề: “Cho chửi, càng chóng lớn!”. Ngần hỏi: “Anh học lớp mấy mà em không biết?”. “Lớp mười phải lên tận huyện học sao biết được!”. Đoài háo hức. Đấy là buổi đầu tiên Hiền, Ngần quen Đoài một cách chính thức. Nhưng Đoài chỉ đèo Ngần về, Hiền và đám bạn lẽo đẽo cuốc bộ phía sau.

                                                                *

         Một sớm mùa đông, giời đỏng đảnh nổi trận bấc đùng đùng, thấy Ngần độc cái áo hoa phong phanh tới trường, mẹ Ngần giật lại, nạt: “Mặc thêm áo, con gái lớn lông lống ra!”. Ngần với cái áo len cũ của chị, ướm thử, nhìn xù lông nhím, phần phật cởi ngay. Ngắm mình qua gương, Ngần chợt thấy hai má căng mịn cà chua, tay vờ bầu ngực, ngực trổ cặp cam sanh đầu vụ, hai lòng bàn tay ran ran, trồi trội. Lục hòm lấy cái áo con cũ của chị gái, treo thử, căng cứng, đầy cỡi, thinh thích, chẳng cởi. Ngược cơn bấc tới trường, vòm ngực Ngần cứ nhú ra nhọn hoắt như chôn phễu rót rượu hút lấy gió. Tiết ba môn Toán, thằng Bốc ngồi sau lưng Ngần giở trò trẻ ranh, rỏ mấy giọt mực vào áo Ngần, rồi viết bậy “tò vú ngân” vào mảnh giấy nháp, lè lưỡi liếm liếm, dính lên chỗ mực rây. Lúc thầy gọi Ngần lên bảng chữa bài, dưới lớp cười vỡ trận. Việc bị phát giác, thầy giáo xử Bốc xách ba mươi xô nước tưới cây. Lũ bạn vẫn cười tưởng nghiêng những gốc cây sân trường. Ngần gục mặt xuống bàn, dây áo con như dây thừng thít chặt ngực, tưởng tắc thở. Hiền rủ rỉ: “ Lũ nó chả to được nên xấu thói!”. Chuyện “tò vú ngân” tràn cả con đường về học. Gặp Ngần, Đoài phanh chân, bánh xe chết cứng cựa xuống đường: “Chấp gì thằng cám hấp trên vung. Con gái lớp anh, quang treo từ đời nảo!”. Im lìm như cột mốc bên đường, Ngần hững hờ nhìn cái túi đựng trứng gà treo lủng liểng ở ghi đông: “Bà ngoại cho, trứng gà có sống, cho con mơ ấp. Ổ trứng của mơ bị rắn tha mất”. Đoạn gạ: “Dạo này bọn giặc lái sun vòi, mai, đi chơi với anh nhé!”. “Chơi ở đâu?”. Ngần bị quên ngay cái chuyện quang treo đeo sớm. “Đến nhà anh Nguyên, bên Phú, anh ấy đóng quân cùng với anh Khu con bác anh, mới được về phép. Ông định gửi ít nhãn khô làm quà ra đơn vị!”. Ngần gật. “Lên anh đèo!”. Ngần lên, xe phóng vèo vèo.

        Tới đoạn ổ gà, Ngần ngã dúi vào lưng Đoài, chưa kịp ngượng bởi hai đít phễu trước ngực chọc mạnh vào tấm lưng dấp dính mồ hôi của Đoài muốn lún sụt thì có tiếng máy bay giặc gầm rú trên bầu trời, tiếng loa phát thanh khẩn cấp cảnh báo. Cả vùng rộng lớn bị quần thảo, vần vũ, xám ngoét, đất động rung, rùng rùng. Lũ giặc lái đến nhanh như hổ đói, bom pháo nhào xuống theo vệt. Nháo nhác. Hỗn loạn. Sợ hãi. Ngộp thở. Đoài quát Ngần ôm chặt, đạp cật lực. Lũ cú vọ diều hâu nhống nhít trên đầu. Bọn học trò nhằm thẳng đường đồng Mật chạy loạn xạ tìm những căn hầm dã chiến. Ùng oàng. Chíu phằng. Bom, pháo, đạn, dội xuống như mưa, đoạn đường tàu bị giật tung, Ngần rú lên, văng xuống mương, Đoài bị hất xuống rệ cỏ, cành găng bom phạt bay vèo qua đầu Đoài rơi đè xe đạp, khói đen, cát bụi ngợp trời.

         Lũ ác thú vụt qua. Đoài nhướng sức, lóp ngóp bò tới chỗ Ngần. Ngần ngất, mái tóc cháy xém sát gáy, áo xống cháy nham nhở còn gân dây, lộ ngực măng nhú căng mơn mởn đang tấy hồng tôm nõn. Bế Ngần lên vệ cỏ, khi bàn tay lóng ngóng chạm vào áo xống, cúc khóa để cởi bỏ tránh da thịt Ngần bị phồng rộp dính theo, đôi trái cam sành tròn vo chẩu núm hồng như dùi nhỏ gõ vào tim Đoài phịch phịch. Đoài nhắm mắt, bàn tay có lúc đi chệch hướng, chạm lướt lên da thịt lồi lõm Ngần. Cắn môi đến tóe máu, cơn chung chiêng tan biến, Đoài mở mắt, dứt khoát từng động tác. Chạy tới chỗ xe đạp đổ, cầm túi trứng gà đã vỡ bét lại chỗ Ngần, chi chút vén vun lầy nhầy lòng trắng thoa lên khắp vết thương cho Ngần, thoa đến đâu, da thịt Ngần dịu đi đến đó, kinh nghiệm dân gian chữa bỏng này, bà ngoại đã chỉ cho Đoài.

            Đoài đến thăm anh Nguyên sau khi cùng dân làng giúp trạm đường sắt ga Điềm sửa lại đường ray cho thông tuyến. Đoài đã mết đi khi nghe anh Nguyên kể chuyện đơn vị anh đánh nhau với giặc ở chiến trường Đông Nam Bộ, chuyện anh Khu chiến đấu giáp lá cà với giặc, bị nó đâm dao sượt đùi trái, vẫn bắt sống được nó dẫn về đơn vị. Về, Đoài phóng thẳng xe vào nhà Ngần: “Anh sẽ nhập ngũ!”. Ngần bàng hoàng: “Nhưng anh chỉ còn mấy tháng nữa là tốt nghiệp, còn trong diện có học bổng đi du học bên Liên Xô nữa?”. “Đất nước thống nhất, về, anh sẽ lại đi học!”.

                                                                     *

         Trăng mười sáu.

 Chia tay Đoài, đám bạn đi trước, Đoài lách vào, rỉ tai Ngần, đợi ở cây cầu đá. Ngần dùng dắng lúc qua cầu, Hiền kéo tay giục, Ngần ậm ờ theo, khi Hiền rẽ vào ngõ, Ngần vội chạy quay lại.

 Đoài đang đợi trên cầu. Trăng đang chờ đôi trẻ trên cầu, trong ngần ngẫn.

Trăng soi bóng đôi trai gái in xuống dòng sông lấp lánh, mênh mang, bàng bạc.

Sương rơi lay phay mái tóc kịp ngang vai vừa tay vuốt của Ngần.

Tay khít khao tay.

Em sẽ đợi anh về!

Ngần khẽ thì thầm, như gió vẫn hằng ngày thổi qua đồng Mật, như bao người con gái bịn rịn đêm chia tay người yêu lên đường tòng quân. Chín nhịp cầu đá muốn gấp nếp chồng thành một nhịp khi ngực ốp quyện ngực, môi đóng dấu môi, niêm phong mười sáu trăng ngan ngát trinh nguyên trên cây cầu cổ kính. Cánh đồng Mật non tơ ngần ngật sáng.

         Bỗng, tiếng dép lê, tiếng gậy khua lộc cộc trên thành cầu, cánh đồng vỡ vụn sáng, dòng sông luễnh loãng tan ánh vàng ánh bạc, môi rứt môi, tay lơi tay. Bóng một người đàn ông chậm chạp lù rù dò dẫm tiến lên cầu. Ngần sượng sùng, toan  tránh, Đoài đuổi theo, tóm được tà áo, níu sát gốc cây tre: “Ông Sam mù ở một mình cuối làng Mai thôi!”. Khối đen lùng nhùng, rách rưới, tay gậy dò đường, vai đeo bị cói tướp bơ, mùi hôi hám túa xung quanh mỗi bước đi, Ngần vùng chạy khi Đoài định ôm lấy Ngần rịt hơi lần nữa.

                                                                  *

     Hiền dọn mâm, cá diêu, thịt ba chỉ luộc, rau cải xào, lạc rang, đậu rán, mấy món dân dã mà Đoài vẫn thích. Nắng trưa ngốt người. Nhác thấy bóng Đoài lụi cụi thăm vườn cam, Hiền cầm thêm cái nón, tong tả ra. “Anh đội nón kẻo say nắng”. “Trồng cam cần những điều kiện thổ nhưỡng nào?” Hiền nói cũng dễ, đào rãnh, đổ đất màu, cứ theo kĩ thuật, trồng, chăm sóc, rộ, xuất cũng ba bốn mươi nghìn một cân. Hiền lại hỏi dưới nhà dạo này trồng nuôi những gì. “Dạo rày, người ta cứ nhắc tới hội chứng đám đông. Có khi nào, toàn dân đổ xô trồng cam, lại giống bí, ớt chỗ tôi không?”. Giọng Đoài trầm kiệt, dáng ngồi rũ liệt như sau vụ dưa hấu được mùa không có người mua chất ngất đầy bờ đống lớn đống bé. Đắng đót, Hiền chưa biết trả lời sao trước áy ót những vụ trồng phá của vợ chồng Đoài. Cứ trồng, chặt, phá bỏ, bợt mặt làm vẫn nhẵn túi. Trận đầu ra quân hứng háo. Trồng bí. Thu hoạch lãi ổn, Đoài được dân tín nhiệm, bầu vào ban quản trị Hợp tác xã. Đoài lăn lộn ngoài đồng tối ngày, học, làm cùng bà con. Bí đầu vụ thu hái được hai chuyến công, nhưng đến lận hai, cả bốn cánh đồng rộ lên thì thương lái lặn mất hút con mẹ hàng lươn, bằng giết người không dao. Chẳng riêng nhà Đoài, mấy làng ăn bí trừ bữa, còn đem làm cám nấu cho lợn ăn, người, lợn, bủng beo, vàng mắt vàng da.

         Đã phận dân cày, sao đành bỏ đất, phải chủ động tìm ra những hướng đi mới cho đồng ruộng. Thanh niên thì bị hút hết vào các công ti, nhà máy, hay đi xuất khẩu lao động, chỉ còn cánh nhàu nhàu như Đoài bám đất. Cuộc họp bàn về chương trình nông thôn mới kết hợp chuyển giao công nghệ trồng trọt cho nông dân kết thúc, cánh đàn ông trụ cột gia đình cùng ban quản trị Hợp tác xã An Phú sang xã Cẩm Hồng nghiên cứu phương thức trồng ớt.

         Vụ hái ớt đầu tiên có cả quay phim, chụp ảnh, bà con tươi hớn như trái ớt chín đầu vụ. Nhưng niềm vui chẳng tày gang, nhoảng, thương lái không về thu mua, lí do chuyển ớt đi tới biên, bên kia không cất nữa. Chấm dứt cuộc điện thoại, hợp đồng mồm nó thế. Nhà Bốc mua máy về thái sấy chờ thời, nhà Đoài vợ vừa đi mổ u nang buồng trứng với sỏi thận, kiệt tiền, hái ớt, tự thái tự phơi, cất gác bếp. Rảnh rang mở xem, mốc trắng, hỏi, nhà Bốc cười rũ, phơi giời cũng phải có hơi lưu huỳnh chống mốc. Đoài sai vợ đem ớt ấy, với tỏi, gừng, giã, ngâm rượu, túc tắc làm thuốc sâu sinh học phun rau ăn như đài bày, còn cây ớt, nhổ phơi khô đét, hầm được mấy nồi cám lợn.

         Đoạn chuôm sen lù lù mọc lên lò đốt rác, trương biển nhà máy xử lí rác Cẩm Phan, tứ bề các công ty tuồn rác về. Làm đồng áp đó, chịu không nổi. Dân chướng, kêu, thì chuyển sang đốt tối đêm. Khói tõe vòi bạch tuộc sục sạo vào khe cửa sổ từng buồng ngủ, phòng ăn, sặc sụa, ám khú, ngộp thở, nhao nhược, độc hại hơn cả ngửi thuốc trừ sâu. Đoài bị ho khạc ra đờm, mắt nhức nhòa nhoẹt, dử đùn cục to cục nhỏ, toàn thân sần mẩn ngứa ngáy, gãi rách toạc da, rỉ máu, bụng nhăn nhẳn đau, sốt cữ chiều kéo dài hàng tháng. Đi khám, chiếu chụp, đo, bác sĩ kết luận, phổi có phần khô, xẹp, bệnh mới phát, còn mắt mờ, đầu đau, vết thương tái phát, phát ban, mẩn ngứa bệnh viêm da cơ địa bội nhiễm, dạ dày viêm nên đau, bệnh toàn dân. Xin chuyển lên tuyến trên, bác sĩ giữ, bảo hiểm y tế mở thông tuyến khám, đâu cũng bệnh ấy, thuốc ấy, thu xếp nhập viện, ở đây chữa được, còn gần nhà. Đoài xin ngoại trú. Sau mấy năm vật vã với đồng ruộng, Đoài còm cõi, xác xơ, cắn rứt, vợ lại ốm yếu, Đoài xin rút chân quản lí hợp tác xã nhưng dân vẫn cứ tin tưởng không cho rút.

Hiền và Đoài vừa bước vào sân thì Sanh về.“Mừng gặp ông. Vẫn rắn rỏi như gạch già ấy!”. Trong lúc hai người bắt tay, vỗ vai chào hỏi thì Hiền đã dọn xong mâm cơm. Ngồi vào bàn ăn, nhìn đĩa rau thơm, Đoài nói: “Năm rồi, thằng Bốc ăn mảnh mà thắng ông ạ!”. “Thế nào?”. “Đất vườn, sào, nó thâm canh rau thơm, rau sống đủ loại, bán trực tiếp cho ba khách sạn nhà hàng, có tiền mua máy thái sấy ớt. Đợi đồng cạn kiệt ớt, phố hết hơi cay, nó mới đánh chuyến ớt bột tận trong Nam, về, dây chuyền đầy cổ, còn khật được con tải cũ, Bốc vênh xích chó, đừng theo voi ăn bã mía, phải làm ngược với thiên hạ mới phất được!”. “Cũng là một mẹo”. Sanh rót rượu.

                                                             *

      “Ngần ơi!”. Ngần đứng vội lên. Hiền chạy vào, ôm lấy vai Ngần: “Tao vừa lên xã nhận giấy báo học, nghe tin anh Đoài bị thương nặng... đến mù cả hai mắt!”. Ngần đổ khụy như cây chuối bị bấc quật bật gốc. Trong một trận đánh lớn, Đoài bị thương nặng do pháo địch, sức ép pháo khiến hai mắt bị hỏng hết, đã đưa về tuyến sau chạy chữa nhưng vẫn còn nguy hiểm.

Ngần nằm bẹp, khóc, mất ngủ, bỏ ăn, kiệt cạn nước mắt. Mấy hôm sau, Ngần nói muốn đi thăm cô Nga cho khuây khỏa, bố mẹ đồng ý. Nhưng Ngần đã ngược tàu đi thăm Đoài sau khi dò hỏi nơi Đoài chuyển về điều trị. Tàu xe khó khăn, bom rơi đạn nổ ùng oàng bủa vây, Ngần cũng tới được bệnh viện Đoài đang nằm điều trị. Rón rén nép ngoài cánh cửa, Ngần nhìn vào. Bên giường bệnh nhân, bác sĩ, y tá đang thay băng, rửa vết thương, tiến hành những hậu phẫu. Mặt Đoài bị cháy nham nhở gần như biến dạng, mắt phồng rộp, sưng đẫn, bên tai trái bị thương cắt cụt còn lỗ, nửa người bên trái cũng bị bỏng, tuột da. Choáng váng, sợ hãi Ngần nhắm mắt tựa tường ôm ngực. Chiến tranh đã lấy đi Đoài trai tráng, khôi ngô, tươi rói, nồng cháy của Ngần, nằm kia chỉ còn một phế nhân. Bác sĩ, y tá đi ra một lúc lâu, Ngần mới se sẽ tới bên giường bệnh, nhìn thấy bên tai cắt, khuôn mặt bị thương nham nhở biến dạng, hai vồng mắt sưng đẫn, tím lịm như tiết gà không mở được, máu, mủ bốc mùi tanh lợm, Ngần rùng mình. Tay Ngần run run khẽ chạm tay Đoài, lạnh buốt, hai giọt nước mắt nóng hổi của Ngần vừa rỏ xuống lòng bàn tay Đoài thì tiếng người nói, tiếng bàn chân, xe cáng xô vào phòng. Ngần dạt vào góc chưa kịp trả lời câu hỏi của y tá Ngần là ai thì Đoài đã được đưa lên cáng, đùn nhanh ra hành lang, chuyển viện tiếp.

  Về nhà, Ngần như im lìm cái bóng. Niềm tin bị lung lay thì tình yêu chẳng thể giữ trọn. Ngần đã ngã lòng. Người đó xã bên, chớt nhả đuổi đeo, một lần, người ấy gạ, đèo được Ngần lên huyện họp Đoàn về muộn. Cánh đồng con gái ngàn ngạt hương đồng nội, đang trên đường chính, người ấy đổi hướng nói đi tắt qua đồng Tre cho nhanh. Đường tắt thắt thẻo, lồi lõm. Trăng khuyết như quả chuối vàng giữa giời đêm, ếch nhái mùa động dục gọi nhau nghe xới ruột. Vừa đi vừa rầm rĩ nói chuyện đồng, trăng, xe khập xuống một cái nong cạn chờm mương, dồn Ngần dúi dụi về phía lưng dấp dính mồ hôi. Người ấy xoạc chân, xoay người ôm chặt lấy lưng ong, đôi cam sành bị chịn chặt ép muốn tứa nước, bụng Ngần rần rật nóng, hơi hướm trai tơ đang xông lên từng lỗ chân lông. Giọng đường mật rót chảy vào tai Ngần: “Đêm nay, Ngần đẹp lắm!”. Lại cầm tay Ngần, đặt lên ngực: “Tim anh đang vỡ tung vì Ngần này. Anh yêu em từ lâu lắm rồi!”. Ngần gỡ cánh tay như cặp rắn quấn riết lấy bụng mình nhưng càng gỡ, cánh tay càng thít chặt hơn, cặp môi dày đã hướng về phía thái dương, dái tai trái Ngần tê dại khi cánh lưỡi mềm ướt lướt lên, phập xuống. Nhoáng nhanh như gió, đôi môi đó lao xuống môi Ngần, dữ dội, cuồng nhiệt, luồn lách, hai cánh cửa răng trắng bong bật tung, hứng hít. Đôi tay đã luồn lên hai trái cam sành, vo bóp, ve vuốt núm cuống như muốn vặt ngấu nghiến khỏi cây. Ngần đê mê, không thể mở được mắt mặc cho dòng thác hoan lạc dâng lên đỉnh điểm, lôi tuột đi, cho đến khi, toàn thân râm râm cỏ châm, mùi cúc tần bị vần nát xộc lên thoảng thoảng cánh mũi, hơi trăng lạnh phủ mơn trớn lên người thì Ngần bỗng giật sững, mở mắt thấy người đã trắng ngẫn không còn mảnh vải, đang bị đằn ngửa, bị róng riết trên cỏ. Ngần ưỡn người định vùng thoát, nhưng không kịp nữa, con gái, mọi cảnh giới phải từ rất xa, khi cửa nhỏ mở được, cửa lớn sẽ không thể trấn giữ, khu rừng rậm đã để tên đốn củi vén cây mở lối móc rìu đu vào, nước suối ngầm bục róc rách chảy tràn ra, chặn chịt kiểu gì. Ngần rướn cong như mảnh trăng trên trời khi mũi rìu phập sâu vào thân cây non đẵn hạ, dòng nhựa tứa ra, nhói rát, rách xoạc, choáng váng, điếng đơ, tê dại. Nước mắt Ngần ứa ra. Đồng Mật, cầu đá, trăng tơ, nụ hôn đóng dấu, Đoài trên giường bệnh trôi vùn vụt qua. Tiếng chão chuộc, ếch nhái gọi bạn tình, vẳng tiếng gậy khua lộc cộc, tiếng gõ sừng đánh gióng chuồng của con trâu nhà ông Mục ngoài ao cá, tiếng chó cắn ma từ ngôi nhà lá đầu làng vọng ra. Mấy con đom đóm bay tóe lên từ ao bèo, mùi hăng hắc cỏ, phang phảng hương cúc tần nát vẩn dưới đùi non, len ám cả những oi hôi bay lên. 

Ra đồng tát nước, Ngần thèm ăn tò vò xanh chát xít lưỡi, nhìn miệng Ngần nhai nghiến ngấu, gân cổ xanh nổi chằng chịt, Hiền vờ chạm vạt áo, sững sờ: “Mày chửa?”. Tò vò nghẹn ứ cuống họng, Ngần ôm mặt khóc. Hiền thắt tim. “Mày hỏi xin địa chỉ anh Đoài để đến thăm, sao còn đổ đốn ra?”. “Tao khổ quá, muốn chết quách đi…”. Những cơn nấc dâng tắc lời.

Chiều đó, Ngần lủi thủi sang sông tìm người, nhưng chỉ gặp đứa em trai ở sân, hỏi, nó khoe, sáng nay bố mẹ đi tiễn anh nó sang nước ngoài du học. Ngần điệng người giữa cổng lạ.

                                                     *

 “Thằng Bình bị chúng đánh, hộc máu mồm, gãy ba răng!”. Đợi cho Nghé và Đức ăn xong vào phòng, Đoài mới nâng chén rượu lên, tợp một hơi, rượu nóng phả lên óc, mở được lời. Im lặng bao trùm cả gian phòng vì Hiền và Sanh đều biết tính ngựa non háu đá của thằng Bình, làm Đoài bao phen khốn đốn. Nó gây gổ đánh nhau với chúng bạn dọc thời học trường làng. Nứt mắt, nó đã ghẹo gái, giữa lớp mười hai, nó gụ con Kim, ra điếm canh đê dập dềnh, bù khú đãi bồi nhau. Con bé ễnh bụng, thằng Bình định chạy làng, ai ngờ, bố con Kim dạng chẳng vừa, thế là cưới chui, được hai tháng cái thai chuội ra. Thằng Bình bê bết, vợ chồng ngủng ngoẳng. Mấy năm sau mới tòi được cu Nghé.

        Năm ấy, Đoài trở về làng đúng lúc người ta đàm tiếu về cái bụng lùm lùm của Ngần. Bố Ngần cay đắng đeo mo vào mặt khi chạm người, mẹ Ngần ốm bệt giường. Hay tin dữ, Đoài đến ngay nhà Ngần. Từ trong buồng tối om, Ngần đã nhìn thấy lưng áo xanh khom xuống khi bước vào trong nhà, sau lưng một vệt nắng dài theo. Ngần sững sờ. Bố Ngần pha nước mời khách. Đoài bỏ mũ cối xuống, bên tai trái đã cắt, vết thương to bằng bàn tay trẻ con úp lên má trái, một bên mắt trái đã hỏng hẳn, thị lực mắt phải cũng yếu đi nhiều. Đoài xin lỗi bố mẹ Ngần đã để tai tiếng cho gia đình, Đoài xin cưới Ngần. “Anh đừng đùa thế, nó sái lắm!”. Bố Ngần cúi mặt xuống tấm bàn thồi đen thui. “Con thật lòng yêu thương Ngần. Ngần sợ bố mẹ không cho đi, đã giấu ém, bí mật lên thăm con khi con bị thương, cái thai chính là của con!”. Bố Ngần giật sững dậy. Ngần xây xẩm mặt mày, đổ vật ra giường, nước mắt tuôn túa.

       Bố mẹ Đoài găng, nhưng Đoài quả quyết, bị thương phần trên, chứ phần dưới Đoài có sao đâu, cái thai bụng Ngần chính là của Đoài, hai ông bà phải xuôi. Đám cưới biện năm mâm, rôm rả, Sanh đến dự mừng đốt cả bánh pháo tép, trẻ con tung tăng đầy cổng ăn kẹo, nhặt xác pháo.

       Đêm tân hôn. Trăng hạ huyền chui qua cửa sổ nhỏ soi tỏ cánh giường tre. Ngần ngồi thẫn ở mép giường khi Đoài mắc màn, không dám ngước lên nhìn Đoài. Chiếc chiếu cói in hình đôi chim câu với dòng chữ hạnh phúc đã được mẹ chồng tự tay trải nhòe đi dưới mắt Ngần. Đoài ôm lấy vai Ngần, Ngần ôm mặt nức lên: “Em có tội với anh...”. “Đừng khóc nữa em!”. Bàn tay Đoài dờ lên má Ngần, những giọt nước mắt vỡ ra nóng hổi: “Anh đã cảm nhận được nước mắt em rơi xuống bàn tay anh lần ấy!”. Đoài gắn môi lên môi Ngần. Trăng hạ huyền ghé xuống cửa sổ chứng kiến tình yêu hai người đã hồi sinh, nghe chiếc giường tre lúc đầu còn ngượng ngùng, e rè sau đung đưa kẽo kẹt như hồi còn bên lũy tre làng đón ngọn gió nồm nam trong đêm thanh tĩnh.

*

       “Nó bị bọn xấu rủ rê, mắc nghiện ma túy. Mẹ nó quỵ, chỉ than khóc. Cái An về bảo cho anh vào trại cai. Nhưng, tôi phải có trách nhiệm cứu nó!”. Hai bàn tay gân guốc đan bẻ vào nhau, từ trong đôi mắt bên giả bên thật, mấy giọt nước mắt tiết ra lăn qua nham nhở vết sẹo trên má, ánh lên như giọt máu.

         Thằng Bình nghiện về trộm tiền vàng của vợ đi hút, con vợ biết, chửi lu loa, động đến bố mẹ, Bình thẳng cánh phang vợ hộc máu mũi. Con Kim bỏ đi, để lại cu Nghé cho ông bà nội. Hết tiền, thằng Bình còn cuỗm trộm cái mũ cối và bộ quân phục tươm nhất của Đoài vẫn cất trong tủ, chính cái áo Đoài đã cởi ra ẵm nó giữa đồng lúa chín lúc Ngần đẻ rơi nó khi đang gặt. Ấy thế mà nó trộm, đổi được hai liều thuốc dã cơn nghiền. Tỉnh cơn, thằng Bình lao đi tìm đánh thằng đã rủ rê nó vào con đường nghiện ngập, còn xúi nó cuỗm áo, mũ của bố đổi lấy phiện. Người làng làm ca về, thấy nó máu mê bê bết lả bên gốc găng đã tri hô lên. Đêm, quãng đứt cơn ngáo ngơ chó dại, thằng Bình khóc van Đoài cứu nó, nó không muốn chết vì nghiện ngập. Nó chịu cho Đoài nhốt, xích lại trong buồng. Ngày ba bữa cơm nước, thuốc nam, đổ bô, nhìn con vật vã lên cơn thèm thuốc, Đoài vừa thương vừa đau, cảm giác rùng rợn hơn cả khi pháo địch ép văng đi tưởng chết.    

        Sanh mở hòm, lấy bộ quần áo lính và mũ cối mới nguyên. “Quà của đơn vị trong đợt kỷ niệm vừa rồi, tặng ông!”. Đoài bẻ ngón tay, lần đó, Đoài đã thu xếp để đi, nhưng con An xin tiền để đi Tây Bắc du lịch, chưa thấy bố mẹ nói gì, nó đã nhẩy nhả khóc, Đoài đành hoãn. Tuần trước, con An cầm mảnh bằng đại học về sau khi đã đi mòn dép không xin được việc trên thành phố, con bé đòi Đoài đến gặp một người có chức quyền để xin việc cho.“Hồ sơ con nộp rồi. Giờ bố mặc quân phục, mặt đầy thương tích đến, họ sẽ ưu tiên hơn”. Lợn rẻ như bèo, gọi thợ chê ảnh ươn, đành mang thẻ đến ngân hàng vay lãi. Bước qua cánh cổng lớn vào cơ quan ấy, chân Đoài đã mất tự tin, líu ríu khi lên cầu thang, dáng Đoài khúm núm khi đi dọc hành lang gặp vài người lướt qua như cái bóng, rồi Đoài đã sựng lại khi nhìn qua cánh cửa sổ mở hững hờ, thấy người béo tròn đang ngồi bên bàn làm việc. Chân Đoài như găm xuống nền gạch, không thể bước vào căn phòng ấy được, Đoài quay đầu, đi như chạy trốn dọc hành lang hun hút.

        Sanh mở cánh áo, đưa hẳn vào tay Đoài. Ánh mắt Đoài dừng lâu nơi Hiền. “Anh Đoài, anh với bọn em như ruột rà, có gì anh cứ nói...”. Đoài nói, một mạch, sợ dừng không nói tiếp được: “Cu Nghé sắp lên lớp năm. Tôi thì bận quản thúc thằng Bình riết, nhà tôi ốm yếu cũng phải lết ra đồng cấy trồng túc tắc. Bạn bè Nghé học thêm đông tây, đứa nào cũng giỏi, còn Nghé, cô bảo học đuối, lại hay buồn. Thương cháu, đận ghềnh thác này, tôi phiền vợ chồng ông, nhất là bà giáo Hiền, giúp chúng tôi nuôi dạy kèm cặp Nghé trong mấy tháng hè, cho cháu có cái vốn chữ để chuẩn bị thi chuyển cấp. Đợi bố cháu cắt cơn, tôi sẽ lên đón cháu!”. Hiền nắm chặt tay Đoài: “Anh cứ để cháu ở đây, về lo cho Bình đi!”.

      Chợp mắt trưa cho đỡ đau lưng, tranh thủ, Sanh dẫn Đoài đi thăm mấy mô hình trang trại kiểu mới trong làng. Lúc về, Hiền đã chuẩn bị quà, cam, trứng gà cho Bình, cân bột sắn cho Ngần, cả bọc cây giống hoa ngũ sắc cho Hội cựu chiến binh của Đoài trồng đoạn đường tự quản. Hiền còn khoe: “Hai anh đi, ở nhà, có cậu học trò cũ tới thăm, hợp đồng mua cam cho siêu thị rau quả Thiên Thanh. Cậu ấy đang muốn tìm mối đặt hàng sản xuất rau xanh lâu dài cho hệ thống siêu thị của cậu ấy. Anh Đoài xem thế nào, mấy cánh đồng đất làng ta ấy!”.

        Như cơn gió nồm nam thổi qua buổi chiều ngộp nắng, Đoài tỉnh người: “Để tôi về bàn tính với các hộ nhé”. Mọi người bịn rịn tiễn anh ra tận ngoài ngõ. Cu Nghé giơ bàn tay nhỏ xíu lên vẫy chào ông nội. Màu áo lính hút như dấu chấm hỏi xanh thẫm giữa cánh đồng lúa đang ngả vàng chanh miên miết.

Nguồn Văn nghệ số 46/2018

                                                              


Có thể bạn quan tâm