April 26, 2024, 9:58 am

Định dạng con người Định dạng thơ

 

Triết gia, văn hào Pháp Jean-Paul Sartre từng viết: “Muốn viết mới hãy tự mô tả mình”… Tôi đọc Phương Đặng từ xuất phát điểm đó, trong sự tò mò, bởi tên tập thơ Con người. Và tôi ngưỡng mộ: khi thiên thu văn chương vẫn không thể giải rốt ráo về con người, Phương Đặng của thế kỷ 21 mạnh dạn đi vào câu đố muôn thuở, bằng sự tự tin đáng kinh ngạc của thế hệ chị: tôi là tôi!

1. Định dạng lại con người

Vẫn những vấn đề muôn thuở về con người: tình yêu là gì, hạnh phúc - bất hạnh là gì, bản chất của sự sống cái chết là gì, con người sống theo thói quen chết bởi thói quen thế nào, con người ảo tưởng về mình ra sao…, tất tần tật, bằng sự nhận chân và thẳng thắn đến ngạc nhiên. Chị không hề giải mã kiểu véo von, mơn trớn, xu nịnh con người, mà chỉ đích danh con người là ai, trong miên viễn mây qua ngàn vạn năm.

Phương Đặng, từ mình, “lật tẩy” con người lâu nay sống bởi thói quen trong tồn tại, trong các khuôn định xã hội, một phát hiện thật tường minh và bối rối: “Em mệt mỏi với những cái khuôn xã hội này tạo nên/ Dành cho em, dành cho anh, và những người khác/ Em mệt mỏi vì bị phán xét dựa trên những chuẩn mực/ Những thứ được coi như thể chúng thực sự tồn tại./…/ Em mệt mỏi phải làm hài lòng anh/ Phải làm hài lòng em/ Làm hài lòng chúng ta/ Hài lòng bọn họ”. Và khao khát hướng tới tự do, cuộc vượt thoát đã đặt ra dứt khoát: “Tự do khỏi anh/ Tự do khỏi em/ Tự do khỏi chúng ta/ Tự do khỏi bọn họ/ Tự do khỏi tâm trí họ/ Tự do khỏi những suy nghĩ của chính chúng ta” (Nhiều như em yêu anh). Thêm một đoạn nữa, cái bối rối này: “Nhưng em đã một mình quá lâu/ Một mình không có nghĩa là cô đơn/ Nhưng em đã cô đơn rất lâu/ Em không chắc rằng mình vẫn còn biết cảm giác/ Được quan tâm là như thế nào.// Và giống như/ Nó không đúng/ Nếu như anh đang phải chắp vá những gì em phải/ chắp vá cho mình” (Một giọt). Chưa thấy người thơ nữ nào trực diện rốt ráo, riết róng như thế. Có chăng nữ sĩ Hồ Xuân Hương ở khía cạnh khát tình, uất ức về bất bình đẳng giới… Nhưng đó là chuyện khác.

Con người trong mối quan hệ với xã hội, với thế giới đã được đặt ra từ phạm vi hẹp nhất - quan hệ gia đình - nơi dễ tìm thấy đồng thuận, tác động qua lại thiết thân; nơi dễ dàng gặp sự thỏa hiệp vì lợi ích chung, hoặc sự xu phụ cảm xúc mang vẻ đẹp cao thượng kiểu, vì nhau, cho nhau. Nhưng cái “khung” này lại bất lực vì sự dối trá, vụ lợi của chính nó: hai người thực sự là hai thế giới biệt lập, những “chắp vá” liên minh tình cảm nếu đạt lợi ích nào đó thì cũng đang phủ nhận con người, trói buộc con người vào “thiết chế” phải chứ không . Lựa chọn xuất phát điểm này, Phương Đặng có cơ hội bóc tách thấu đáo nhất con người. Không phải để “đấu tranh” mà là “nhận chân”. Định dạng để khai mở những bế tắc, bi kịch trong vô vàn quan hệ, đối diện với thực trạng cuộc sống.

Về tình yêu, điều ám ảnh lớn của con người chẳng hạn. Có thực không, khái niệm đó, và nó như thế nào, gương mặt tình yêu là gì? Liệu có nhầm lẫn gì chăng? “Anh đã tìm thấy em/ Và em đã tìm thấy anh/ Hay chúng ta đã gặp/ Sự phóng chiếu chính mình” (Sự đáng yêu trên khuôn mặt anh). Rồi: “Anh không muốn em/ Anh muốn một ai đó đã được tạo ra bởi tâm trí anh/ Và rồi em xuất hiện/ Anh bắt em phải đóng vai con người đó// Và chúng ta nói với nhau/ Rằng chúng ta yêu nhau” (Câu chuyện). Hay, ta là ai trong thế giới này, trong rất nhiều những mâu thuẫn nội tại; căn nguyên những bất như ý, đau khổ không thuần nhận thức mà rất sinh học - nỗi khát thèm xu phụ, sở hữu: “Tại sao tôi lại cảm thấy bất ổn với cơ thể của mình/ nó đã tận tụy phục vụ tôi suốt 31 năm qua?/…/ Không ai/ Tự lấy tay đấm vào tường/ Và trách cái tay tại sao lại đau” (Nhầm lẫn). Hoặc: “Bạn sẽ ngừng ăn ngay một món ăn chán ngán/ Hoặc khi đã quá no/ Nhưng lại không thể ngừng ăn quá khứ của mình/ Ngay cả khi nó đã choán hết chỗ trong đầu óc của bạn/ Và sinh sôi nảy nở nhanh hơn cả vi khuẩn?/…/ Bạn làm gì với một món ăn đã không còn hấp dẫn/ Thì hãy làm đúng điều đó với quá khứ!/ Hãy ngừng coi quá khứ là quá khứ của bạn/ Hay cuộc đời là cuộc đời của bạn!// Nó chỉ là quá khứ thôi!” (Quá khứ)…

Có thể tình cờ thôi, con người phát hiện được mình. Tôi nghĩ Phương Đặng bắt đầu từ điều đơn giản nhất, kiểu: “Ngay cả một chiếc đồng hồ đã chết/ Vẫn đúng hai lần mỗi ngày” (Đồng hồ chết). Hiện tượng, sự vật diễn ra trước mắt ta hàng ngày, thật tự nhiên và vốn không hàm chứa bất kỳ triết lý nào. Chỉ con người tự làm rối rắm… Nhận ra sự nhầm lẫn ấy - cũng là nhận ra sự mất mát, một nhận ra khai phóng! Và mọi thứ rộng mở thênh thang vào chính mình, vào căn cốt vị kỷ hoặc tự ti, bé mọn…

Những lật xới, tranh biện, phân vân, phủ định, xác tín trên từng ngóc ngách con người, đầy ắp, xuyên suốt tập thơ gần 130 bài của Phương Đặng. Tất cả thấu triệt, không một chút khoan nhượng. Tất cả, như một ám ảnh không thể không gỡ bỏ các hư ảnh bề ngoài, bên trong; qua nhận dạng của người khác hay sự nhầm lẫn chính nó, lừa dối chính nó. Không phải để lý giải các vấn đề về con người qua nhận diện tâm lý học, giáo dục học, xã hội học, phân tâm học…, mà là cuộc tìm kiếm cái “ta” từ  “phi ta”, một thực hành đơn giản nhất lại tỏ ra khá hiệu quả trong định dạng con người.

 

2. Nhưng sao lại là Phương Đặng?

Phương Đặng vừa ngoài ba mươi, là thế hệ cầm bút trẻ bây giờ; một thế hệ mới, quá khác. Họ tự tin và lớn bổng lên.

Đương nhiên ở tuổi trong, ngoài ba mươi, văn chương trong nước, thế giới luôn có những tài năng lớn… Những tài năng văn chương sớm phát lộ đều có căn nguyên. Phong trào Thơ mới của Việt Nam chẳng hạn. Từ du nhập văn hóa phương Tây, rồi chữ Quốc ngữ đã thay thế chữ Nho - giải phóng thơ Đường “tức cảnh sinh tình” suốt ngàn năm, giải phóng văn chương biền ngẫu, thay cái “ta” thành cái “tôi”. Chữ Quốc ngữ và văn minh phương Tây bừng sáng tức khắc, bởi thế hệ này, từ cái tôi thân phận vừa tự hào về đất nước, dân tộc mình, vừa mặc cảm những khuôn phép ngái ngủ, “vong quốc nô”, đã vỡ tung: họ đề huề hiện diện. Cả mảng triết học, nghệ thuật, những Trần Đức Thảo, Văn Cao, Phạm Duy, Đặng Thế Phong, Tô Ngọc Vân, Nguyễn Đỗ Cung, Nguyễn Gia Trí…, rồi sau này, những Trịnh Công Sơn, Thanh Tâm Tuyền, Duyên Anh, Tô Thùy Yên… Và rất nhiều nhà văn, nhà thơ lớn trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ … Có thể gói gọn một điều có tính quy luật: nhân tài thường xuất hiện trong thời loạn!

Vậy thời khắc Phương Đặng và thế hệ chị là gì, cuộc xuất hiện này? Đương nhiên là thời bình, rất lâu rồi, khi họ chưa sinh ra. Nhưng là thời bình đặc biệt: thời hội nhập, thời “thế giới phẳng”, công nghệ số; thời tuổi trẻ toàn thế giới không khác biệt mấy về phương tiện, khát vọng với tư duy toàn cầu, các thuật ngữ 4.0, trí tuệ nhân tạo… Phương Đặng làm thơ từ trước năm 20 tuổi, cũng như vài bạn trẻ giờ 24, 25 đã in tiểu thuyết khá chững chạc… Nhưng, với tập thơ, Phương Đặng khác biệt thế hệ mình ở lựa chọn - duy nhất và quyết liệt - là khám phá con người. Hẳn chị tin rằng, mọi thay đổi, diễn ngôn, trước hết, cái gốc vấn đề, là thay đổi nhận thức về con người.

Điều quan trọng là, chị không bị lướng vướng “thân phận nữ” và thản nhiên đi qua “dòng thơ nữ quyền… Cái gốc của vấn đề, chính từ sự bất toàn trong mỗi con người, và mỗi nhìn nhận, khát khao, ước muốn, đau khổ, phẫn nộ về sự “bất bình đẳng”, cầu xin, v.v… bao giờ cũng được rọi xét bằng những định kiến. Như, những “nghi ngờ” cái gọi là tình yêu, là gia đình đầy “ước muốn” đã trích dẫn phần trên, thực ra đều xuất phát từ nhận diện căn cốt từ đầu: “Nhân danh tình yêu/ Giống cách những con vật vẫn làm/ Ta tìm cách đánh dấu lãnh thổ của chính mình/ Lên người khác.// Nhưng ngay cả những nơi bị đánh dấu/ Cũng chẳng hề thuộc về ai/ Những ranh giới chỉ tồn tại trên bản đồ/ Trong tâm trí/ Và cách con người sắp xếp thế giới” (Một nửa 1). Hay: “Ta muốn những đứa con đẹp/ Muốn một gia đình đẹp/ Nhưng đẹp và xấu chẳng còn nghĩa lý gì/ Khi đẹp chỉ là những tiêu chuẩn./…/ Thoát khỏi tiêu chuẩn/ Gia đình chỉ là gia đình/ Con chỉ là con/ Bạn đời chỉ là bạn đời/ Một ai đó chỉ là chính họ/ Bất cứ cái gì chỉ đơn giản là chính nó// Khi thoát khỏi tiêu chuẩn/ Tình yêu bắt đầu” (Đơn giản). Và, không chỉ bất toàn cả trong ý nghĩ, định kiến, con người luôn chuyển động với chính nó trong từng ý niệm: “Một mối quan hệ cũng như bốn mùa quanh năm:/ Nó thay đổi liên tục/ Kể cả khi một mùa đông tới/ Nó cũng không thực sự giống những mùa đông trước/ Nếu nó có giống thì chỉ bởi vì/ Bạn vẫn đem theo hai chữ “mùa đông” trong tâm/…/ Cho dù đó là con bạn, bạn đời của bạn/ Hay bố mẹ bạn, hay chính bạn/ Đừng mắc kẹt vào ý niệm rằng người đó có một cái tên/ Nên người đó sẽ luôn luôn y nguyên/ Như một thời điểm nào đó./ Họ cũng thay đổi/ Như những cái cây phải thay lá, ra hoa/ ra quả./…/ Tháo gỡ những ý niệm sẽ là sự bắt đầu đích thực” (Đủ tình yêu). Từ nhầm lẫn này, con người thường bơ vơ, lạc lối rồi mải miết đi tìm, dù là kẻ cô đơn, kẻ ham vui, kẻ nghiện ngập, kẻ tức giận, kẻ tuyệt vọng…, bỏ “mọi công sức tìm kiếm/ Là để né tránh/ Cơn khủng hoảng của chính mình/ Có tên gọi là/ Tôi là ai?/ Tôi cần một ý nghĩa cho cuộc đời”. Thực ra: “Thứ hắn cần tìm/ Có sẵn ở bên trong” (Đi tìm).

Còn gì nữa trong sự tỉnh thức đến tận cùng này? Sự sống và cái chết - một thiên thu ám ảnh khác của loài người chăng? Đây: “Cái chết chỉ là ảo tưởng, là hình dung/ Không có cái chết nào cả!/ Chống lại cái chết/ Cũng chính là chống lại sự sống./ Vì sự sống và cái chết không hề tách rời/ Chúng là hai nửa của chân lý/ Tự do là khi ta chấp nhận cái - gọi – là - chết” (Hồi chuông). Nếu sự sống, cái chết “không hề tách rời” như chân lý, thì cái đẹp cũng không thể cắt ghép mà thành: “Ta không thể lấy một nửa gọi – là - đẹp của mình/ Để lắp vào một nửa gọi- là- đẹp của người khác/ Hay lấy một nửa cái - gọi – là - đẹp của con tê giác/ Đắp vào một nửa cái - gọi – là - đẹp của một con công/ Hai nửa đẹp chỉ tạo nên quái gở” (Một nửa 1). Và đây là bản chất sự dối trá: “Dối trá có rất nhiều bộ mặt khác nhau/ Và nó luôn cố gắng trở thành/ Thứ mà nó không bao giờ có thể trở thành// Có lẽ chính nó cũng không biết điều này/ Bởi nếu nó biết thì nó đã chết” (Sự thật).

Từ sự thấu tường con - người - nữ chính mình, tất nhiên không hẳn dễ dàng gì. Phương Đặng đã “chú ý” mình, “nhận ra” mình, chứ không “đi tìm”, “tranh đấu”, không “nổi loạn” để bộc lộ, khơi gợi sự chú ý từ người khác.

 

3. Định dạng thơ

Như cách nói thường nghe bây giờ “hai trong một”, hay cách diễn trình của Phương Đặng về sự sống - cái chết, về dối trá - sự thật, về sự bất khả hai nửa cái đẹp: định dạng con người (bằng thơ) không thể tách rời với định dạng thơ.

Con người, vốn mỏng mảnh và ưa xu phụ, thường thích mơn man ve vuốt, thích mơ mộng - cũng là một thuộc tính của nỗi sợ hãi và khát thèm - xưa nay dễ dàng nghe lọt tai những véo von xưng tụng hoặc sầu thương chia sẻ, tạng thơ “truyền thống” vần vè, tiết tấu, nhạc tính, “có sao nói vậy người ơi”. Ở tầng lớp học vấn nào đó, thích kín đáo hơn từ khơi gợi khá thời thượng (những thời thượng ở ta thôi) dạng “siêu thực”, “tượng trưng”, “biểu hiện”…; hoặc, tuy không nhiều bạn đọc, một số tác giả bí hiểm câu chữ diễn tả sự bí hiểm, hoặc gợi chú ý từ sắp xếp kiểu “tân hình thức”… Tất cả đều làm con người - bạn đọc thích. Nó không nhàm, xưa nay, nếu ngòi bút có tài, biết cách biến hóa, diễn tả khác, điều con người muốn đọc; một cảm tinh tế, một suy nghiệm sâu... Phương Đặng đã cởi bỏ, không phải lớp áo quen thuộc ấy của thơ, mà là tạo dựng một - thơ - khác, cho con - người - khác. Cái hợp lý “hai trong một” chứ không phải nội dung nào hình thức nấy. Việc rốt ráo định dạng con người không thể được làm bằng thao tác kỹ thuật thuần túy. Tức cũng ngoài ý muốn chủ quan của nhà thơ. May cho Phương Đặng, hoặc cũng đã tới thời điểm phù hợp: không cần phân định rạch ròi trường phái, chủ nghĩa sáng tác, văn chương đã và đang hình thành, hoàn thiện xu thế xóa nhòa ranh giới thơ và văn xuôi, nội dung và hình thức - tức một hình thức không thuần biểu hiện nội dung mà nó đã là nội dung, can dự chính thức thành nội dung; và một nội dung của bài thơ hay thường sẽ được viết tiếp trong bạn đọc. Ví dụ:

Đi vào vùng không biết

Là tình yêu lớn nhất ta có thể dành cho mình.

Buông bỏ quá khứ,

Buông bỏ nỗi sợ về tương lai,

Buông bỏ ý niệm về cái mình không được là,

Đã từng là,

Phải là,

Sẽ là.

            (Không biết)

Ý nghĩa, độ ngân vọng của đoạn thơ không bàn. Chỉ thấy trên nền chữ đầy tính bạch hóa của nó, vấn đề dần cô đọng đến nén lại theo trình tự nhận thức sự “buông bỏ”: quá khứ, tương lai (can dự thời gian, kinh nghiệm và hy vọng), các ý niệm cái mình không được: “đã từng” (quá khứ), “phải là” (hiện tại) rồi “sẽ là” (tương lai) - một cách tăng cấp cụ thể sự “buông bỏ”. Vào “vùng không biết” là biết “buông bỏ”. Buông bỏ luôn cái chưa biết - “sẽ là”, chính là tìm thấy cái “sẽ là”, cái sinh sôi tất yếu, là tình yêu “tìm thấy” dành cho mình. Có thể tách bạch nội dung và hình thức không? Và đã có thêm một từ “sẽ là” đang được viết tiếp trong bạn đọc. Đoạn thơ lại mở đến vô cùng vì nó biết cách để trở lại “vùng không biết” khá mơ hồ ban đầu.

Tập thơ có duy nhất một bài quan niệm về thơ: “Giây phút mà bạn sẵn sàng để viết/ Dù thậm chí còn chưa bắt đầu/ Tác phẩm đã hoàn thiện/ Bởi vì tác phẩm không được làm ra/ Trong lúc bạn đang thực hiện nó/ Tác phẩm đã ra đời/ Từ trong khoảnh khắc bạn đã nhúng mình/ Hoàn toàn vào hiện tại./…/ Mẹo để hoàn thành một tác phẩm là:/ Tuyệt đối/ Không được nghĩ rằng/ Mình sẽ viết nó” (Bài thơ ra đời từ bắp ngô). Tất nhiên, chẳng phải “mẹo” mực gì: nhà thơ chỉ nói cái chớp sáng bừng lên của ý tưởng sáng tạo, cái “khoảnh khắc” đủ sau điều kiện cần. Nó cũng khá siêu hình. Vấn đề là con người sáng tạo có chuẩn bị sẵn sàng để đón nhận và ân hưởng món quà ấy không, kiểu luôn còn “Trong chậu đất của những cái cây đã chết/ Thượng Đế vẫn gửi/ Những mầm cây” (Mầm cây không biết tên).

Trung thành với tín niệm nghệ thuật này của mình. Không cưỡng cầu. Như chị tin lựa chọn duy nhất đúng: con người hãy là nó, tự nhiên nhất. Và bài thơ sinh ra, đôi khi chỉ là một ý tưởng tình cờ vụt hiện, chứ không phải hình thức thơ một câu, hai câu, ba câu…: “Bạo lực có bản chất là chối bỏ” (Bạo lực). “Tôi ngừng nói/ Khi nhận ra sự im lặng mới là khó hơn cả” (Ngừng nói). “Còn muốn là còn đau khổ” (Muốn). “Hạnh phúc là đau khổ trá hình/ Khi ta chỉ muốn hạnh phúc mà thôi” (Hạnh phúc)… Nó hiện lên, và đủ.

Những câu thơ, bài thơ đã được sinh ra với một sứ mệnh cụ thể. Bằng ngôn ngữ sáng tỏ nhất, lạnh lùng, sắc lẻm, không câu nệ bất kỳ khung khổ hình thức nào. Nó là thơ – con - người với nỗ lực cuối cùng hướng tới: con - người - là, dù con người luôn mong muốn: phải là, sẽ là… Một nỗ lực thuần khiết, chân thành, dung dị và không lớn tiếng.

Có thể đọc Con người của Phương Đặng tuần tự từ đầu đến cuối, ngót 130 bài nối tiếp cuốn hút. Có thể giở bất kỳ trang nào, bài nào. Tất cả đều sáng lên trong ta ánh sáng sự thấu triệt. Như một kiểu “Tâm kinh”- cho chính chị. Tôi cũng thấy cái ánh sáng ấy, cho chính mình.

Nguồn Văn nghệ số 3/2022


Có thể bạn quan tâm