April 26, 2024, 3:53 pm

Chuyện của chính trị viên xe đạp thồ Điện Biên Phủ

 

Trong chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử, cả nước đã huy động gần 300.000 dân công, hơn 21.000 chiếc xe đạp thồ cùng hàng ngàn chiếc thuyền nan, ô tô, ngựa …; vận chuyển hàng chục ngàn tấn lương thực, hàng nghìn tấn xăng dầu, vũ khí đạn dược, thực phẩm, thuốc men… cho mặt trận. Đóng góp của lực lượng dân công trong chiến dich Điện Biên Phủ, trong đó có dân công xe đạp thồ, là vô cùng to lớn. Ba kiện tướng Bùi Văn Tín, Đào Đức Tỵ (Cao Tỵ) và Nguyễn Văn Ngọc, người thành phố Thanh Hóa, đã lập kỷ lục thồ hơn 320kg gạo vào mặt trận. Ba kiện tướng này đã được Bác Hồ thưởng huy hiệu của Người, được Nhà nước tặng thưởng Huân chương chiến công hạng 3.

Nhân dịp Kỷ niệm 65 năm chiến thắng Điện Biên Phủ, chúng tôi may mắn được gặp và hỏi chuyện một chính trị viên đại đội dân công xe đạp thồ ở thành phố Thanh Hóa đã phục vụ mặt trận Điện Biên Phủ từ ngày 24 tháng 3 đến ngày 3 tháng 5 năm 1954. Cụ tên là Trần Khôi, cũng có tên nữa là Trần Đức Khôi, năm nay 93 tuổi. Trước khi nghỉ hưu, cụ Khôi đã có một nhiệm kỳ làm  chủ nhiệm ủy ban Kiểm tra thị ủy Thanh Hóa ( nay là Thành ủy) và bốn nhiệm kỳ làm phó chủ tịch rồi  phó chủ tịch thường trực ủy ban nhân dân Thị xã Thanh Hóa (nay là Thành phố Thanh Hóa).

Nhà cụ ở số 10 phố Ngô Văn Sở, một phố nhỏ cách đại lộ Lê Hoàn, thành phố Thanh Hóa không xa. Hai lần tôi đến thăm cụ đều thấy cụ ông và cụ bà ngồi uống trà và đọc báo cho nhau nghe. Cụ bà năm nay đã 90 tuổi và vừa nhận được bức trướng chúc thọ của các con cháu chắt chít… trong nhà.

Trong căn phòng khách nhỏ được bài trí hài hòa và tiện dụng của gia đình cụ Khôi, có hai bức ảnh được treo trang trọng giữa những tấm huân huy chương, bằng khen giấy khen của hai cụ. Đó là bức ảnh ban chỉ huy đại đội xe đạp thồ Điện Biên và các trung đội trưởng, tiểu đội trưởng trong đại đội; Bức ảnh thứ hai là các cá nhân tiêu biểu của đơn vị dân công xe đạp thồ hỏa tuyến của thành phố Thanh Hóa mang tên Điện Biên thời chống Mỹ cũng do cụ Trần Khôi làm chính trị viên.

Khi được biết nguyện vọng của tôi, cụ Trần khôi lặng đi giây lâu rồi cụ xúc động nói: “Giá còn các anh Bùi Tín, Nguyễn Văn Ngọc, Đào Đức Tỵ thì mới thật xứng đáng để chú viết lại chiến công của dân công xe đạp thồ thành phố Thanh Hóa. Ba ông ấy mới thật là tấm gương tiêu biểu nhất. Cả tỉnh Thanh Hóa tự hào chứ không riêng lực lượng dân công xe đạp thồ thành phố Thanh Hóa này đâu!”.

Tôi vội thưa để cụ Trần Khôi yên lòng là hồi năm 1990, tôi và đạo diễn Nghệ sỹ ưu tú Xuân Sơn cũng đã được gặp cụ Bùi Tín và cụ Đào Đức Tỵ, các cụ đã trả lời khá sinh động những ngày chở hơn 300kg lương thực thuốc mem lên mặt trận Điện Biên Phủ trong điều kiện đường sá gập ghềnh lầy lội, sạt lở và máy bay địch luôn sẵn sàng oanh tạc trong nội dung và cảnh quay của bộ phận tài liệu. Quê ta sông Mã – Hàm Rồng. Cụ Trần Khôi vui hẳn lên, cụ nói: “Tôi đã xem bộ phim ấy. Bây giời phần lớn anh em dân công xe đạp thế hệ Điện Biên đã trở thành người thiên cổ rồi”.

Có lẽ để cho việc hồi cố của mình thêm thuận lợi và cũng muốn giúp chúng tôi được mục sở thị những vật chứng thiêng liêng của một thời hào hùng cách đây 60 năm, cụ Trần Khôi cẩn trọng lấy ra những giấy tờ sổ sách ghi danh tính các chỉ huy, đội viên, các quyết định điều động, các con số nhận giao lương thực, thực phẩm, thuốc men… thậm chí có cả các con số ghi lại số săm lốp xe đạp, áo che mưa được cấp. giải thích vắn tắt nhưng đầy đủ thông tin từng vật chứng một rồi cụ rủ rỉ kể:

Trong kháng chiến chống Pháp, tỉnh Thanh Hóa là vùng tự do, thị xã Thanh Hóa được gọi là thị trấn đặc biệt Thanh Hóa.  Để tránh máy bay Pháp oanh tạc các cơ quan chủ chốt của tỉnh và thị trấn đặc biệt đều sơ tán lên mạn Rừng Thông (khi ấy còn trực thuộc huyện Đông Sơn), Bôn (huyện Thiệu Hóa), Xuân Tín (huyện Thọ Xuân). Song nhiều cơ quan vẫn có bộ phận tiền phương bám trụ tại thị trấn đặc biệt Thanh Hóa. Các hoạt động dân sinh được chuyển về đêm. Cứ tối đến là đường phó Thị xã và chợ búa lại động vui nhóm họp. Cả một vùng rộng lớn xung quanh thị xã được nhiều người gọi là thủ đô của vùng tự do khu Bốn. Đặc biệt trong những năm thiếu tướng Nguyễn Sơn làm tư lệnh, khu trưởng, giới trẻ trong thị xã rất thích phong cách và trang phục của ông. Nhiều người xin đi Vệ Quốc đoàn để mong làm lính của khu trưởng, tư lệnh Nguyễn Sơn.

            Sau các ngày 20, 21 tháng 11 năm 1953, được tin quân Pháp nhảy dù chiếm đóng Điện Biên Phủ và huênh hoang tuyên bố rằng : Điện Biên Phủ là pháo đài bất khả xâm phạm mạnh nhất Đông Dương, từ đây chúng sẽ bình định Tây Bắc và Thượng Lào, sau đó bao vây Việt Bắc, lùng bắt Chính phủ kháng chiến, hoàn thành kế hoạch bình định Đông Dương trong 18 tháng của tên đại tướng Na-va thì quân và dân vùng tự do Thanh Hóa hết sức phẫn nộ. Thanh niên các huyện, thị nô nức tòng quân, thanh nữ thì đăng ký đi dân công, các cụ phụ lão, các ông bà trung niên thì đóng góp vật dụng, tiền của. Riêng ở thị trấn đặc biệt Thanh Hóa có ngày nhận được hơn 100 chiếc xe đạp mới toanh mác Xanh Tê Chiên nổi tiếng của Pháp và mấy chiếc ô tô vận tải made in France… Cấp trên nhìn thấy thế mạnh của thị xã tỉnh lạng nên tập trung xây dựng lực lượng xe đạp thồ thị trấn đặc biệt Thanh Hóa thành một đơn vị mạnh gồm nhiều đại đội để tham gia binh đoàn ngựa sắt (tên gọi lực lượng xe đạp thồ ngày ấy) của cả nước.

            Bác Khôi kể tiếp: - Đầu năm 1953, khi đó tôi đang là cán bộ tổ chức của thị ủy thị trấn đặc biệt Thanh Hóa thì được điều đi làm chính trị viên một trong những đại đội chọn lọc của binh đoàn ngựa sắt. Đại đội của chúng tôi có trên 100 người do anh Nguyễn Hổ lớn hơn tôi khoảng 3 tuổi làm đội trưởng. Trong ban chỉ huy còn có một đại đội phó. Giúp việc cho đại đội là một y tá và hai công binh phục vụ xe đạp. Các anh công binh có trách nhiệm sửa chữa xe, khâu lốp, vá xăm, nghiên cứu cải tiến các phụ tùng trợ giúp xe như tay ngai, cọc thồ, phanh, chèn… mỗi khi lên dốc, xuống dốc.

            Đại đội chúng tôi tập trung lấy hàng ở xã Xuân Lập, huyện Thọ Xuân vào ngày 24 tháng 3 năm 1954. Trước đó chúng tôi đã được phổ biến tin, Bộ Tổng tư lệnh và Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã quyết định chuyển từ đánh nhanh thắng nhanh trong 2 ngày 3 đêm sang đánh chắc tiến chắc, có thắng mới đánh.

            Chúng tôi cũng được biết hôm 06/3/1954 chỉ huy trưởng bộ chỉ huy Pháp ở tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ Đờ Cát gửi thư thách thức Đại tướng Võ Nguyên Giáp: “Nghe tin ngài đưa nhiều sư đoàn lên đây giao chiến và định đem quân vào ăn tết ở Điện Biên Phủ, chúng tôi sẵn sàng đón tiếp ngài”. Cầu được, ước thấy. Ngày 17/3/1954 quân ta đã nổ súng mở màn đợt 1 chiến dịch Điện Biên Phủ, tiêu diệt toàn bộ phân khu phía Bắc của tập đoàn cứ điểm gồm các đồi Him Lam. Độc Lập, Bản Kéo.

            Tin vui làm nức lòng anh em dân công xe đạp thồ chúng tôi. Mọi người chỉ mong sao sớm nhận được gạo để kịp chở lên phục vụ mặt trận. Đọc báo thấy đăng lời của tên đại tướng Na-va, nói: “Việt Minh đưa lên đây 21 cân gạo thì ăn hết 20 cân”, có anh dân công đã vận luôn thành cao dao: “Đồ mày mũi lõ, tóc hung/ Biết đâu được mẹo các ông mà lần/ Đồ mày mũi lõ tóc quăn/ Việt Minh diệu kế như thần, chờ xem”.

            Đúng là bọn thực dân mũi lõ, tóc quăn, chỉ biết tính toán theo kiểu máy móc, thiển cận. Chúng không thể biết rằng, người dân công Việt Minh khi đã nhận 20 cân gạo tiêu chuẩn phải chuyển lên Điện Biên Phủ thì dù có đói đến mấy thì họ cũng không đụng vào một hạt gạo thiêng liêng ấy. Chúng không hiểu được rằng, người dân công trên đường lên Điện Biên đã tự lo đủ số lương thực nuôi mình, sẽ luôn được nhân dân nơi họ đi qua giúp đỡ, được rừng che chở và rừng nuôi bằng các sản vật của rừng. Chưa kể trên đường vận chuyển với tinh thần Tất cả cho tiền tuyến! Tất cả để giải phóng Điện Biên Phủ, người dân công còn nghĩ ra nhiều phương kế kỳ diệu để tăng năng suất vận chuyển, đi nhiều chuyến, bảo quản gạo, thực phẩm, vũ khí, thuốc men… an toàn nhất. Vì vậy đến khi thua trận rồi thì chính Na-va cũng phải thừa nhận: “Chúng ta thua ở Điện Biên Phủ vì chiếc xe đạp thồ Pơ-giô. Xanh Tê- chiên của người Pháp

            Đại đội xe đạp thồ của chúng tôi có quân số ổn định tròn 100 người. Lúc đầu nhận hàng, mỗi người đóng hai bì gạo, mỗi bì 50kg, chúng tôi xuất phát từ kho hàng Xuân Lập, huyện Thọ Xuân ngược hướng tây, tiến lên Ngọc Lặc, từ đó sẽ đi qua Cẩm Thủy, Bá Thước, Quan Hóa rồi sang đất Hòa Bình để hành quân lên Điện Biên. Nếu đi theo đường 15 rồi sang đường 41 thì khoảng cách hơn 300km. Nhưng để tránh bị máy bay Pháp oanh tạc và các bến đò phà sông lớn, chúng tôi đi theo đường dã chiến mới mở. Theo hành trình này, khoảng cách sẽ là 500km. Đội hình hành quan theo hàng dọc, giữa các trung đội có khoảng cách ngắn. Đại đội trưởng đi đầu mở đường, đại đội phó đi giữa đốc chiến, chính trị viên, y tá và hai công binh đi sau cùng để đoạn hậu.

            Những ngày đầu anh em rất háo hức nhưng càng lên miền Tây đường càng gâp ghềnh khó đi. Rét và mưa cuối Giêng ở miền rừng Tây Bắc lạnh đến khủng khiếp. Muỗi mòng đẻ ra như ong, vắt bắn tí tách như nứa lép nổ. Có lúc trong đại đội hơn chục người bị ốm, đe dọa đến tốc độ hành trình và số lượng vận chuyển. Song, cả đại đội đã đưa ra một quyết tâm: Tất cả vì chiến thắng, người khỏe kèm người yếu, thực hiện không để rơi một hạt gạo, không để rớt lại một dân công. Trong những ngày này với cương vị là một chính trị viên đại đội, tôi rất thấm thía với câu nói của Bác Hồ đã căn dặn cán bộ dân công: “Người đội trưởng, người chính trị viên phải như người anh, người chị, người bạn của đội viên. Cán bộ có thân đội viên như chân tay thì đội viên mới coi cán bộ như ruột thịt”. Chính nhờ tình cảm đùm bọc nhau như anh em trong nhà nên toàn đại đội đã mau chóng lấy lại được ý chí và sức khỏe. Hơn thế nữa, tất cả mọi người đều cảm thấy phải đi nhanh hơn, thồ được nhiều gạo hơn lên mặt trận. Nhất là khi báo Quân đội nhân dân tiền phương (báo xuất bản dạng đặc biệt phục vụ mặt trận Điện Biên Phủ) đăng tin đồng chí dân công Mai Văn Thắng, người ở Phú Thọ, lập kỷ lục chở 352kg; các dân công Bùi Tín, Đào Đức Tỵ, Nguyễn văn Ngọc ở Thanh Hóa chở hơn 320kg, toàn đại đội nâng mức bình quân lên 120kg, 160kg rồi 200kg… Chở nặng, đường xấu, xe đạp bắt đầu bị nổ săm, xé lốp, gãy càng trước. Hai công binh vá chữa hết công suất vẫn không thể khắc phục được. Anh em nảy ra sáng kiến: xé áo may ô, viền chăn chiên ra quấn quanh săm trước khi cho vào lốp bơm hơi. Sáng kiến này có tác dụng ít nhiều nhưng khi muốn nâng năng suất chở lên cao hơn nữa thì vẫn bị nổ xăm, xé lốp. Lại thêm một sáng kiến mới, những chiếc lốp cũ được cắt hai bên tanh để độn vào hai bên lốp chính. Như vậy lốp xe đạp sẽ có bốn lớp ôm vào vành xe, gồm Săm, lớp vải quấn, lốp độn và lốp chính. Đây là sáng kiến phát huy tác dụng nhất, từ đó trở đi, mỗi khi lên đường cho một hành trình mới, dân công xe đạp thồ chúng tôi không còn lo lắng chuyện nổ săm, xé lốp nữa.

Khi cả đại đội hành quân sang đất Hòa Bình thì chẳng ai còn cái áo may ô nào nữa, chăn chiên đắp thì cứ ba người, còn có hai chiếc mà cả hai chiếc đó đều bị xé cả 4 phía viền để dùng quấn săm. Tôi nghĩ các từ tay ngai, cọc thồ của chiếc xe đạp có lẽ đã ra đời trong chiến dịch Điện Biên Phủ. Trước đó không thấy ai nói đến hai từ này. Tay ngai là đoạn trúc già chắc, dài khoáng 80 phân, được buộc chặt vào đầu ghi đông, bên trái bằng dây cao su cực tốt có phụ thêm dây đay bền. Cọc thồ là đoạn tre già, đường kính như cán thuổng, dài khoảng 1m buộc vào dóng dọc nghiêng qua yên xe, để nhô lên trên 50 phân. Tay ngai là để dân công thồ lái xe, còn cọc thồ là dùng cho mỗi khi lên dốc, xuống dốc. Lên dốc thì dân công tì vai vào đó, đẩy; xuống dốc thì kéo ghì ngược trở lại để giảm tốc… Kể đến đoạn này, giọng bác Khôi trở nên xúc động: Chúng tôi ngày đi đêm nghỉ. Hôm nào trời có trăng tạnh ráo hoặc lợi dụng ánh sáng pháo dù cầm canh của địch thì tranh thủ hành quân. Những đêm mưa rét không ngủ được thì tụm lại đốt lửa, căng vải mưa hoặc hái lá rừng làm mái che. Những lúc ấy mấy cây văng nghệ trong đại đội lại thay nhau ngâm thơ. Chỉ có mấy bài tủ thôi, bài Đêm nay Bác không ngủ, bài Đồng chí, bài Bầm ơi… Với bài thơ Đêm nay Bác không ngủ, khi được ngâm đến đoạn: Bác thương đoàn dân công/ Đêm nay ngủ ngoài rừng/ Giải lá cây làm chiếu/ Manh áo mỏng làm chăn… thì nhiều dân công bật khóc. Đúng là chúng tôi đã trải qua cảnh ấy, nhưng nhờ giời toàn là sức trai trẻ, lại thấu hiểu nhiệm vụ vinh quang của mình, nên dù không được ngủ, dù rét, dù mưa… ngày hôm sau vẫn bám đường và đi đến đích đúng theo kế hoạch.

            Nghe đến đây bỗng tôi đường đột ngắt lời cụ Khôi bằng câu hỏi.

- Thưa bác, dân công xe đạp thồ Điện Biên sợ nhất cái gì và vui nhất chuyện gì ạ?

Cụ Trần Khôi liền nói ngay:

- Sợ nhất là khi xuống dốc, đúng là cái cảnh vai ghì, tay níu, gối khụy, lưng gò, chỉ sơ sẩy trong nháy mắt cả xe hàng lao xuống dốc kéo theo cả mình luôn. Ở một số đơn vị đã có dân công hy sinh trong lúc cho xe đạp xuống dốc. Anh em trong đại đội của tôi mỗi khi gặp dốc cao, cạnh vực thì ba người hỗ trợ cho nhau chuyển từng xe một nên đều an toàn cả!

Tôi lại hỏi:

- Thưa bác, thế còn chuyện gì là vui nhất ạ?

- Gặp dân công nữ. Lúc ấy hết mọi mệt nhọc, lại được hò hát giao lưu, hỏi thăm quê quán, đồng hương. Toàn các cô mười tám, đôi mươi cả mà. Nhiều cô hò hát hay lắm. Họ đối đáp thông minh tình tứ đến kỳ lạ. Chỉ cần một nữ dân công cất lên: “Ơ hò, gặp nhau xin có lời chào/ Hỏi thăm anh ở quê nào, anh ơi” tức thì các chàng trai tồng tộc kể hết tên tuổi quê hương bản quán dài dằng dặc. Mà cách kể bằng văn vần, nghe thích lắm… Hồi ấy lành mạnh. Chỉ hò hát vui vẻ làm quen, giúp được nhau thì hết lòng. Đã có lần toàn bộ đơn vị dân công nữ xúm lại đẩy cả 100 xe thồ của dân công nam lên dốc ngon ơ.  Phải thế mới gánh được gạo, chở được thuốc men, vũ khí lên Điện Biên chứ!..

Cụ Khôi kể tiếp về cuộc hành quân của đơn vị dân công xe đạp thồ thị trấn đặc biệt Thanh Hóa mà cụ là chính trị viên: - Chúng tôi vượt qua địa phận Suối Rút, hết địa phận trung tuyến, để sang vùng hỏa tuyến. Quân số vẫn đảm bảo đầy đủ, gạo đã nâng lên theo bình quân đầu người. Tim tức thắng trận ở Điện Biên Phủ cuối tháng 4 đầu tháng 5 năm 1954 dội đến từng ngày. Ai cũng mau chóng để đến được gần mặt trận hơn. Ngày 3/5/1954, nghĩa là còn 4 ngày nữa thì kết thúc chiến dịch Điện Biên Phủ, đại đội xe đạp thồ chúng tôi được tổng cục Cung cấp tuyên dương là đơn vị khá nhất. Anh em vô cùng phấn khởi trong cái phấn khởi chung từ các chiến công của bộ đội đang đánh những trận cuối cùng ở mặt trận Điện Biên.

Chúng tôi chưa đến được Điện Biên Phủ thì chiến dịch kết thúc. Theo lệnh trên, chúng tôi được phép trở về địa phương gấp. Thế là 100 chàng trai của thị trấn đặc biệt Thanh Hóa đạp xe đạp trở về quê hương trong không khí mừng công như hội của các làng bản, phố xá dọc đường…

*

Sang thời kỳ chống Mỹ cứu nước, lực lượng dân công xe đạp thồ Điện Biên lại được huy động để phục vụ hỏa tuyến Khu 4. Hồi đó đang là phó chủ tịch ủy ban hành chính thị xã Thanh Hóa, cụ Trần khôi được điều đi làm chính trị viên một đơn vị dân công hỏa tuyến của thị xã Thanh Hóa, cũng là dạng dân công xe đạp thồ. Cụ Trần Khôi nhớ lại, Thanh Hóa ngày ấy chi viện cho hỏa tuyến lớn lắm. Đoàn công tác chi viện do chính Bí thư tỉnh ủy Hoàng Văn Hiều làm trưởng ban, hoạt động từ nam Nghệ An đến giới tuyến sông Bến Hải. Đoàn này được gọi là đoàn Điện Biên.

      Đơn vị dân công xe đạp thồ hỏa tuyến thị xã Thanh Hóa do cụ Trần Khôi làm chính trị viên được cắm chốt trở hàng ở vùng Cẩm Xuyên, Hà Tĩnh. Con đường đi lại của đơn vị là hơn 10 cây số đường rừng có mấy chốt trọng điểm. Trong đơn vị ngoài chính trị viên Trần Khôi còn có một số cựu dân công xe đạp thồ Điện Biên. Tinh thần Điện Biên lại một lần nữa thắp sáng trong ý chí quyết thắng của dân công xe đạp thồ thị xã Thanh Hóa. Các kỷ lục 15 tấn/ ngày/ người được nâng lên 17,5 tấn, rồi 21 tấn/ngày. Các kiện tướng Dũng, Phúc, Đen, Khánh, Bình, Nhi, Dương, Quỳnh, Ngọc… đã chở đến 4 tạ/chuyến. Thậm chí ông Dũng có chuyến chở đến 680kg. Kỳ tích này đã được ghi nhận bằng văn bản của ủy ban hành chính huyện Cẩm Xuyên, Hà Tĩnh mà cụ Trần khôi còn giữ được. Tên các kiện tướng vừa nêu trên là tôi ghi từ văn bản đó ra. Rất tiếc người ký văn bản đã không cho đánh máy đầy đủ họ tên, năm sinh, địa chỉ cụ thể của họ. Theo cụ Trần Khôi, đơn vị có được thành tích vượt bậc ấy là do sử dụng các kinh nghiệm hồi đi chiến dịch Điện Biên Phủ, là ý chí và niềm tự hào được mang tên đoàn Điện Biên lịch sử năm xưa…

            Kết thúc câu chuyện, cụ Khôi quay sang vợ, cụ bà Dương Thị Minh, nói:

- Bà nhà tôi cũng có tinh thần Điện Biên Phủ lắm đấy. Hồi có phong trào đóng góp xe đạp cho mặt trận Điện Biên, bà ấy đã góp một nửa chiếc xe đạp Xanh Tê chiên và ở nhà trông các cụ hai bên nội ngoại, nuôi các con ngoan, khỏe để tôi yên tâm ngoài mặt trận.

Bà cụ Dương Thị Minh vui vẻ góp lời:

-Trai thời loạn, các ông mới làm nên trò chứ chị em phụ nữ chúng tôi đóng góp được tí chút nào có đáng gì…

Nguồn Văn nghệ số 19/2019


Có thể bạn quan tâm