VĨNH BIỆT NHÀ THƠ LÒ CAO NHUM
Nhà thơ Lò Cao Nhum, người dân tộc Thái, sinh ngày 09/6/1955, quê quán Bản Lác, xã Chiềng Châu, huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình. Ông từng là Ủy viên BCH Hội Văn học Nghệ thuật Hòa Bình các nhiệm kỳ 2,3,4 (từ năm 1995 đến 2017); Ủy viên Ban Thường vụ Hội VHNT Hòa Bình nhiệm kỳ 4; Ủy viên Ban Văn học dân tộc miền núi Hội Nhà văn Việt Nam nhiệm kỳ 7; Ủy viên Ban Kiểm tra Hội Nhà văn Việt Nam nhiệm kỳ 8; Ủy viên Ban Chấp hành Hội VHNT các Dân tộc thiểu số Việt Nam nhiệm kỳ 2014-2019; nguyên Phó Tổng biên tập kiêm Thư ký Tòa soạn báo Văn nghệ Hòa Bình.
Các tác phẩm đã xuất bản: Dân ca Thái Mai Châu (sưu tầm, dịch, in chung,1991); Giọt sao trở về (thơ, 1995); Rượu núi (thơ, 1996); Mùa hoa chuông (thơ in chung, 1997); Sàn trăng (thơ, 2000); Theo lời hát về nguồn (thơ, 2001); Lời hát trong lễ hội chá chiêng (dịch, biên soạn dân ca Thái, 2001); Góc trời (thơ, 2009); Rượu núi (thơ chọn, 2010); Phiên chợ hoa văn (tập ký, 2005); Bếp lửa trong đời sống người Thái (khảo cứu, 2008); Tìm hiểu lịch sử – Văn hóa cổ truyền người Thái Mai Châu (chủ biên, 2016); Hợp tuyển văn học Thái vùng Mai Châu (khảo cứu, sưu tầm, 2020).
Nhà thơ Lò Cao Nhum đạt được nhiều giải thưởng văn học: Tặng thưởng Chùm thơ hay trong năm báo Văn nghệ Trẻ 1996; Giải C cuộc thi Thơ Tạp chí Văn Nghệ Quân Đội 1996–1997; Tặng phẩm chung khảo giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm1996; Giải thưởng Hội VHNT các dân tộc thiểu số Việt Nam năm 2009 và 2010; cùng nhiều lần được nhận Giải thưởng Văn học Hòa Bình 5 năm, 10 năm… của UBND tỉnh Hòa Bình.
Sau một thời gian điều trị bệnh, nhà thơ Lò Cao Nhum đã từ trần lúc 21h30 ngày 14/6/2023 (tức ngày 27 tháng Tư năm Quý Mão), hưởng thọ 68 tuổi. Tang lễ nhà thơ đã được tổ chức vào ngày 15/6/2023 (tức ngày 28 tháng Tư năm Quý Mão) tại nhà riêng ở Bản Lác, Mai Châu, Hòa Bình.
Chỉ cách đây ít ngày, nhà thơ Lò Cao Nhum đã gửi cho Tuần báo Văn nghệ một chùm thơ, chúng tôi cũng đã sắp xếp để in vào số báo này (số 25), báo chưa kịp đi in thì nhận được tin ông đã qua đời. Trang thơ tưởng như in ra để làm lời động viên nhà thơ cố gắng vượt qua bạo bệnh, nào ngờ trở thành trang thơ vĩnh biệt ông, một người con tài hoa của đồng bào dân tộc Thái.
Báo Văn nghệ xin gửi lời chia buồn sâu sắc tới gia đình, bạn bè và độc giả của nhà thơ, cùng các dồng nghiệp ở Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Hòa Bình, và xịn giới thiệu chùm thơ này thay cho lời vĩnh biệt ông.
Văn nghệ
LÒ CAO NHUM
Chiếc áo sặc sỡ
của thầy Mùn
Chiếc áo sặc sỡ
Tua đỏ diềm xanh
Nào lấp lánh viền bạc
Nào lấp ló ánh vàng
Rộng thừa tay
Dài quá chân
Chiếc áo sặc sỡ của ông Then
Tặng thầy Mùn
Làm người cứu nhân độ thế.
Khoác chiếc áo sặc sỡ
Thầy Mùn ra ngoài ngõ
Vung chân, múa tay
Phẩy quạt, tung kiếm
Làm quả bưởi rợn gai
Quả muỗm rụng non
Cụp cả đuôi con bò
Con bò vừa chạy vừa ngoái nhìn
chiếc áo sặc sỡ.
Không biết thần linh
Chẳng hay ma quỷ
Đâu tường pháp thuật
Chỉ biết cõi trần này
Có chiếc áo thầy Mùn sặc sỡ.
______
* Thầy Mùn: Thầy cúng có uy tín cao trong xã hội Thái.
* Ông Then: Ông tối cao trên mường Trời theo quan niệm dân gian Thái.
Cây thốt nốt
bên bờ biên giới
Bờ ruộng không thẳng không queo
Không rộng, không hẹp
Chon von, xêng xang cây thốt nốt.
Sần sùi mà ngọt trái,
Xoè mặt trời xanh
Thắp nắng mây gió.
Có một đường chỉ vô hình
Phân nửa bờ ruộng
Bổ đôi thân cây
Cây thốt nốt lắc lư vô tư nghiêng ngả.
Rễ chùm uống nước ruộng này
Uống nước ruộng kia,
Cỏ xanh cũng không chia
Phương này phía nọ.
Chàng trai Căm Pu Chia ruộng bên buông cày
Cô gái Nam Bộ bên này ngơi tay gieo sạ
Dưới vòm râm thốt nốt
Rôm rả mùa màng.
Ông nội tôi
khai sinh miền đất
Như mọi họ mạc
Các cộng đồng
Đất nước
Ông nội tôi khai sinh miền đất.
Bắt đầu là gồng gánh núi non
Ở trong núi có mồ hôi của đá
Trong đá kết tinh nỗi khổ
Nỗi khổ ủ niềm khát khao.
Rồi ông vung dao phạt quang mầm đói
Ông chọc lỗ gieo hạt củ no
Sự sống ấm chân trời hoang sơ
Lá nón rách trầm tư canh mùa
Con rơm bù nhìn lật lờ mưa gió.
Mưa lũ bóc mảng nương xuống vực
Gió nóng hun cháy mùa vàng rực
Giặc càn rỡ đấm hố bom sâu hoắm vườn nương
Ông vẫn đứng như cây bền rễ.
Gan lỳ không phó mặc
Sau lưng ông rồng rắn bao thế hệ
Vẽ lên mặt đất một quy luật sinh tồn
Thế hệ tôi chưa xa thế hệ ông
Nhưng cũng không còn gặp ông nữa
Ông khai khẩn đất đai và ông đã về hòa với đất.
Tôi tha thẩn lòng mình từ mộ địa cánh rừng
ra mơn mởn vườn nương
Nơi ông từng đứng gan lỳ suốt dọc triền mưa gió
Nghe mạch đất râm ran
vọng điều linh thiêng
Hỡi mọi sinh linh mặt đất
Trong ta trú ngụ một Thành Hoàng.
Nóc nhà ta
có hoa khau cút
Nhận ra anh em
Nhận ra họ hàng
Nhận ra đồng tộc
Khi nóc nhà có hoa khau cút.
Đấy là tín hiệu vui
Tín hiệu máu mủ
Anh có thể cởi dép
Rửa chân lên thang
Tìm chỗ ngồi của mình nơi góc chiếu.
Ta về với nhà ta
Anh có gói thì anh mở
Chủ nhà sẽ xum xoe chắp mười ngón tay
đón nhận
Không có, chủ nhà cũng không nỡ
Bỏ qua vài sừng trâu rượu cần.
Nửa là khách, nửa là người của nhà
Anh lỡ độ thường kèm theo lỡ bữa
Đấy là điều chủ nhà nhấp nhổm chẳng an.
Miếng thịt gà măng chua thành câu ca
Rằng của vườn của bếp
Chớ lạ đi, lạ về
Chớ quên nóc nhà có hoa khau cút.
Rồi anh đi
Ngoái nhìn ngọn hoa mưa nắng
Thơm thảo nơi mái lá nhà sàn
Văng vẳng níu chân lời hát
Người ta chỉ muốn gần nhau thôi.
Lời chợ phiên
Tao có chồng, mày đi bắt vợ
Bao mùa vụ cắm cúi đời nương
Mấy vòng mặt trời quên trăng tỏ
Sương lửng lơ bình lặng xanh rừng.
Hơi đâu mà giữ buổi đầu thương
Mày thổi khèn còn tao thổi lá
Tháng giêng thẹn thùng hơi men lạ
Say rồi khèn bế lá lên mây.
Giờ mày năm chân, tao bảy tay
Chuyện chồng vợ còn giấu vào núi
Tao nhớ mày, gùi lưng lủi thủi
Nén mũi kim thêu áo cho chồng.
Giờ tao lên bà, mày thành ông
Con cháu nhao nhao như gà quạ
Rằng bà nhớ không, xưa kèn lá
Ngựa sắt cháu đèo xuống chợ phiên.
Chợ tình tâm sự mấy mươi phiên
Yêu thương gập ghềnh còng dáng núi
Gió lùa sau lưng nấn ná mãi
Chiều chẳng còn mấy, chợ dần vơi…
Nguồn Văn nghệ số 25/2023