May 5, 2024, 3:12 pm

Tình yêu nghề yêu trẻ của thầy giáo mầm non nơi vùng khó

 

Giữa một lớp học đông đúc và tập hợp đủ các lứa tuổi mầm non, một thanh niên đang say sưa dạy các cháu ca hát, tập múa. Lớp học mầm non này đặc biệt bởi giáo viên là nam chứ không phải là nữ như thông thường người ta vẫn gặp, ấy là hình ảnh khiến chúng tôi thực sự ấn tượng về thầy giáo mầm non Phạm Văn Thụn, ở lớp mẫu giáo thôn Trầm - điểm lẻ của trường mầm non Pa Nang, xã Pa Nang, huyện Đakrông, tỉnh Quảng Trị.

 

Thầy giáo “giỏi” buộc tóc, tập múa cho trẻ

Chọn một ngày một ngày cuối năm thời tiết khá thuận lợi, chúng tôi quyết tâm lên đường vào thôn Trầm, xã Pa Nang để gặp thầy Thụn. Mất gần hai giờ vừa đi bộ vừa ngồi xe máy vượt đoạn đường lởm chởm đá gần hai mươi km và lội hơn 7 con suối lớn nhỏ, chúng tôi đã thấy điểm trường lẻ thôn Trầm trước mặt. Lúc này, đồng hồ điểm mười một giờ ba mươi phút, cả thầy lẫn trò đang cố chờ khách đến trước giờ cơm của các cháu, vì chúng tôi có nhắn rằng muốn chứng kiến bữa cơm các cháu tự mang đến lớp như thế nào. Thầy Thụn đón chúng tôi bằng câu nói đầy lạc quan: “Có đường như bây giờ đã là “thiên đường” với chúng tôi rồi, bởi chỉ cách đây một vài năm, để vào được Trầm, nhất là vào mùa mưa, chỉ có phương tiện duy nhất là đi bộ mà thôi”.

Chưa hết mệt bởi chặng đường mình vừa đi qua, chúng tôi nhìn vào bữa ăn mà các cháu mầm non ở bản mang đến lớp, không nén được xót xa. Những âu cơm nguội lạnh hoặc thố xôi đã cứng hạt nếp, thức ăn kèm chỉ có hoặc lá rau rừng, đôi ba con cá suối, có cháu thì có thêm miếng chả trứng đã là sang, hoặc có cháu chỉ mang mỗi ít cơm và mỳ tôm sợi đã trương phềnh. Thầy Thụn nói, nhiều cháu có hôm chỉ mang đến lớp mỗi một âu xôi ăn với muối, như vậy là xong bữa trưa. Thực ra, mỗi trẻ ở đây có chế độ nhà nước hỗ trợ tiền ăn mỗi tháng 139.000 đồng/cháu, tuy nhiên điều kiện của lớp học không có cô nuôi để tổ chức nấu nên bố mẹ được nhận khoản tiền này để tự lo bữa ăn cho con mình mang đến lớp. Cái ăn đơn giản, không đủ chất dinh dưỡng, cái mặc của các cháu cũng còn muôn bề thiếu thốn. Có nhiều cháu mặc nguyên bộ áo, quần một tuần, vừa bẩn, vừa nặng mùi, thầy giáo phải nhắc nhở phụ huynh giặt thay bộ mới, nhưng thực ra đều biết mỗi cháu chỉ có vài ba bộ áo quần mặc quanh năm.

Ngoài dạy học, thầy Thụn còn chịu khó dành thời gian tìm tòi nguyên vật liệu làm đồ chơi cho các cháu. Chải tóc, buộc tóc, tập múa, dỗ trẻ, những việc tưởng chừng cần sự khéo léo của phụ nữ, dưới bàn tay của thầy Thụn, đều trở nên thuần thục dễ dàng. Giờ học của thầy Thụn dường như thêm hấp dẫn, sinh động và không ít hài hước bởi cái duyên đặc biệt của một giáo viên mầm non là nam giới.

 

“Nghề chọn mình”

Sinh ra và lớn lên ở xã Gio Mai, huyện Gio Linh, Phạm Văn Thụn có một tuổi thơ không may mắn như bạn bè khi gia đình thiếu khuyết bàn tay của người cha. Mẹ anh một mình tần tảo xoay xở nuôi con khôn lớn. Thụn đăng kí thi vào ngành Mầm non, trường Đại học Sư phạm Huế trước sự ngỡ ngàng, thậm chí khó hiểu của rất nhiều người. “Còn nhớ hôm tôi cầm giấy báo thi chờ đến lượt gọi vào phòng thi, giám thị nhìn tôi tròn mắt nói, cậu đứng đây làm gì, tránh ra cho thí sinh vào thi. Ngay cả khi tôi chìa giấy báo thi cho giám thị xem, thầy giáo đó kiểm tra mấy lần và vẫn không hết kinh ngạc”, Thụn nhớ lại. Trong quá trình học, cũng không ít lần nhiều giáo viên vào lớp cũng tưởng anh ngồi nhầm lớp học, khi thấy giữa hàng chục sinh viên nữ xuất hiện một thanh niên. “Những giờ học múa, học hát không hề dễ dàng chút nào đối với tôi, bởi các bạn nữ thì dẻo dai, khéo léo, trong khi mình chân tay long ngóng, người thì thô tháp. Nhưng cũng may mắn là trong những năm tháng sinh viên, tôi được các thầy cô rất ưu ái, tận tình chỉ bảo để mình không nản lòng bỏ cuộc”, Thụn kể lại.

Năm 2008, tốt nghiệp đại học, Thụn được biên chế về Phòng Giáo dục huyện Đakrông, nhận công tác tại xã Pa Nang. Điểm đầu tiên mà thầy Thụn đến nhận lớp là điểm lẻ thôn Ngược, một trong những thôn có địa hình hiểm trở, khó khăn. Từ trung tâm xã Pa Nang, anh phải di chuyển sang xã lân cận hơn 15 cây số, từ đó đi ngược trở lại và cuốc bộ thêm 5 cây đường rừng mới đến được thôn Ngược. “Khi tôi đến nhận nhiệm vụ ở thôn Ngược, ở đây chưa có trường lớp gì. Suốt một tuần đầu tiên  tôi và hai giáo viên tiểu học khác cùng bà con dân bản lên rừng chặt tre, nứa để dựng lớp học cho các cháu, dựng tạm chòi để giáo viên có chỗ tá túc. Đây chính là lớp mẫu giáo đầu tiên ở bản ngược với 7 trò, phần lớn đã quá tuổi học mẫu giáo”, thầy Thụn kể. Thôn Ngược heo hút, không có điện, không có sóng điện thoại, báo chí lại càng xa xỉ, thầy Thụn cùng với hai đồng nghiệp vừa dạy học, vừa học hỏi bà con đi soi nhái, ếch để có lương thực ăn dần. Có thời điểm vào mùa mưa, hai ba tháng không về nhà được vì đường sá bị chia cắt, ba anh em băng đường trèo lên con dốc Giường Giờ để bắt được chút sóng điện thoại hiếm hoi gọi về nhà, mới hay ở quê vừa trải qua trận lụt to. “Nghe tin tức ở nhà xong, có thầy giáo đi cùng không nén được nỗi buồn tủi, ngồi bệt giữa con dốc Giường Giờ khóc ngon lành, đòi bỏ việc về nhà vì không chịu được gian khổ”, đó là kỉ niệm mà có lẽ thầy Thụn không bao giờ quên được về những tháng ngày cắm bản gian nan.

Ba năm dạy thôn Ngược, bốn năm gắn bó với thôn Bù, một năm ở thôn A La, một năm ở thôn Ba Nang, ba năm thôn Cóc và đến nay là thôn Trầm, những nơi mà thầy Thụn từng đặt chân đến đều là những thôn bản vùng sâu vùng xa khó khăn, heo hút, hiểm trở. “Có đi đến những thôn bản khó khăn mới hiểu được người dân, nhất là trẻ em ở những nơi đó thiệt thòi rất nhiều. Các cháu không được đến lớp học vì không có giáo viên, thiếu thốn cái ăn cái mặc. Và ở những nơi này, nếu không có những giáo viên nam chịu khó cắm bản thì có lẽ các cô giáo cũng quá vất vả khi nhận nhiệm vụ ở vùng khó như thế này”. Những trải nghiệm này chỉ có ai đã kinh qua cắm bản nơi vùng khó mới hiểu hết những gian nan của giáo viên vùng khó.

Chúng tôi rời thôn Trầm khi đã quá chiều. Thầy Thụn cứ áy náy vì không mời khách được bữa cơm đàng hoàng. Thầy thật thà nói rằng giờ muốn ăn được bữa tươm tất thì phải ngược ra ngoài kia một đoạn đường mới có quán xá, và “kho lương thực dữ trữ” của thầy hiện cũng chỉ còn toàn mỳ tôm. Dẫu vậy, những khó khăn vất vả không làm nhụt chí người thầy, anh nói rằng: “Các cháu nhỏ ở thôn bản vùng khó đã thiệt thòi nhiều rồi, nghề đã chọn mình thì dù bất cứ điểm trường khó khăn nào, mình cũng tự nguyện đi, để cho các cháu ở vùng khó được đến lớp, được học múa học hát như bao bạn bè đồng trang lứa”.

Nguồn Văn Văn nghệ số 44/2019


Có thể bạn quan tâm