April 28, 2024, 11:30 am

Ông Ba Hay. Truyện ngắn dự thi của Phan Đức Nam

TẬP ĐOÀN THACO HÂN HẠNH TÀI TRỢ CUỘC THI TRUYỆN NGẮN BÁO VĂN NGHỆ 2022-2024

Một câu hỏi lớn không lời đáp

Cho đến bây giờ mặt vẫn chau

HUY CẬN

Minh hoạ: Tô Chiêm

Long rủ Minh về quê mình chơi. Minh hỏi có gì vui không? Hà! Vui hay không do mình. Tao quen rồi, nhưng với mày sẽ có nhiều cái lạ.

Minh gật: “Nghe nói vùng đất Thất Sơn đầy kỳ bí, lần này về An Giang tao sẽ đi nhiều nơi”

Long bảo: “Má tao lo xa, sợ tao có máu văn nghệ giống ba, gặp bạn bè hay nhậu nhẹt. Bả nói ra nói vô, nói với ông dượng tao, nên một bữa dượng kêu tao lên, biểu: “Con nên qua Nông Lâm học, về tăng gia vườn nhà phụ má lo cho em”. Vậy là tao nghe - phải nghe. Mày chưa biết dượng tao đâu. Nhờ ổng tao mới được như ngày hôm nay. Ổng tinh lắm! Siêu lắm! Nhiều người gọi ổng là ông Hay Thần Sầu”.

Minh tròn mắt. Long gật:

“Hay chớ không phải Hai. Ổng thứ ba - Ba Hay. Anh ổng là Hai Giỏi. Ông Hai trốn lính, bị bắt tống đi lao công đào binh, dính bom chết rồi. Ông Ba vô du kích để trả thù cho anh, trở thành tay súng bắn tỉa thần sầu. Bọn ác ôn sợ Ba Hay hơn sợ cọp”.

Minh thích thú nghe. Long dặn: “Khi gặp dượng tao, tránh đả động tới chuyện vợ con ổng”

“Sao vậy?”

“Đụng vô nỗi đau chớ sao.”

“Mày kể thêm về ông dượng cho tao nghe đi?”

 “Được. Kể cho mày nắm: Ba tao dạy học, là cây đinh văn nghệ xã. Ông Ba Hay hơn ba tao một giáp, là anh em cột chèo, tao kêu ông Ba bằng dượng.

Ổng nổi tiếng gan lì từ nhỏ. 16 tuổi ổng vô du kích, lâu lâu xẹt về thăm nhà. Bạn ổng kể đêm nào có Ba Hay đi săn cải thiện, nghe tiếng súng AK đơn lẻ là ở nhà lo nấu thùng nước sôi. Ổng khỏe như trâu, bơi lặn như rái và táo bạo cực kỳ! Lập nhiều chiến công độc đáo. Báo chí đã viết nhiều về ổng. Sau giải phóng, ông Ba làm trưởng công an xã. Vợ ổng đẹp hết xẩy, hoa khôi Trường Dân tộc Nội trú đó.

Nào ngờ Pôn Pốt tràn sang tàn sát dân mình. Cả cha mẹ và vợ con dượng Ba đều bị giặc giết, con trai ổng mới ba tuổi, vợ mang bầu đứa thứ hai. Đau đớn chưa!

Lúc đó dượng Ba đang học lớp cán bộ gì đó ở Thành phố Hồ Chí Minh nên thoát nạn. Ba má tao dạy học ở Châu Đốc.

Dượng tao quá uất hận, tức tốc về cùng bộ đội đánh giặc. Ổng lao vô chiến trường, coi cái chết như không, hổng sứt mẻ gì hết.

Khi giặc Pôn Pốt tan, ổng bất ngờ xin nghỉ việc”

 “Sao vậy?”

 “Ai biết? Nhà nước khuyên nhủ cỡ nào ổng cũng nghỉ, chỉ lãnh một năm lương để mua lương thực rồi lên núi làm rẫy. Tao nghĩ ổng quá đau buồn, hổng thiết tha gì nữa”

“Ổng lấy vợ sau chưa?”

Long lắc đầu:

“Ổng gần như tu, chỉ nhận người con nuôi - ảnh hơn tao chục tuổi, chịu cực lắm! Qua chục năm họ đã khai phá được bốn mẫu đất trồng cây ăn trái”

“Gần vườn nhà mày không?”

“Xa bốn cây số, trên lưng núi Dài Lớn, gần chiến khu ngày xưa ổng hoạt động”

  “Vườn rẫy rộng vậy chắc đông người làm?”

 “Mới đầu chỉ có hai cha con. Sau dượng tao cưới vợ cho anh Thạch. Giờ ở trển có thêm hai người nữa là đồng đội ngày xưa với dượng. Mấy ổng nhận với Nhà nước 5 mẫu trồng rừng, lập trại nuôi cá sấu, lợn lòi. Làm kinh tế hay lắm!”

Minh gật gù. Long kết luận: “Cuối năm ra trường, tao sẽ xin về làm gần nhà. Địa phương mà không nhận thì tao làm với dượng. Dượng bày cho tao rồi: Mẫu đất nhà tao đây sẽ trồng cây lâu năm. Cây chưa lớn thì trồng đan xen bắp đậu. Dượng nói quay qua quay lại ba chục năm sau tao sẽ có tiền đống, xây biệt thự mua xe hơi chạy phè phè. Tao nghe cũng khoái, nói: Dạ lúc đó dượng muốn đi đâu con chở dượng đi. Ổng cười: Lúc đó tao theo ông bà rồi. Giờ còn sống thì ráng làm. Đời ông đời cha phải lo gầy dựng cho con cháu”

Minh gật gù: “Dượng mày thật sáng suốt.” Rồi nghĩ: Long may mắn có ông dượng. Còn mình, ra trường trước Long một năm, giờ chưa yên chỗ, cày viết kiếm tiền phiêu lưu quá!...

*

Minh dụi mắt, đầu còn váng vất, anh bước ra sau rửa mặt.

Bà Thơ đang lúi húi sau vườn, Minh tiến lại, hỏi: “Bác làm gì vậy?”

Bà Thơ quay ra: “Bác kiếm ít gừng bỏ vô mớ lá xông cho bây giải cảm độc”

Minh cảm động chưa biết nói gì thì bà hỏi: “Bộ trên thành phố con với thằng Long hay nhậu lắm hở?”

- “Dạ... Lâu lâu có dịp lễ… tụi con mới uống vài ly bia, đâu có uống rượu như ở đây…”.

Minh nghĩ bà Thơ còn giận vì tối qua Long và anh về khuya. Long say khướt, anh cũng say nhưng ráng dìu bạn về, nhờ thêm bạn của Long hộ tống.

Minh xoa tay: “Bác tha lỗi!... Lâu quá anh Long mới gặp lại bạn. Mỗi người ép vài ly, thành ra...”

Bà Thơ lắc đầu: “Hở chút là nhậu, là ép! Uống hay không do mình chớ”.

Bà nói xong bưng rổ rau lá vô nhà. Minh bần thần đi theo.

Khi Minh vô buồng thì thấy Long đang ngồi ôm đầu lắc qua lắc lại.

“Má mày giận đó - Minh nói - Ra xin lỗi má đi”

Long gật rồi vin cửa bước ra.

Minh nghe tiếng nói chuyện dưới bếp: “Chiều qua anh Thạch mày xuống cho cái đùi cheo với con lóc bự. Đợi mày lâu quá nó phải về, ra chợ mua thuốc cho con, thằng nhỏ nóng đầu.”

“... Ảnh có nói gì nữa không má?”

“Nó nói dượng mày ít bữa nữa theo một sư ông ra Bắc, ổng nói kỳ này đi lâu. Coi chừng dượng mày tu luôn à. Người ta nói Tu Phật lên Yên (1), tu Tiên Bảy Núi. Mày mau lên thăm dượng, chớ lu bu với đám bạn dưới này ổng đi mất là hổng gặp”.

 “Dạ tụi con ở trển với dượng ít bữa nghe má?”

 “Ừa. Để tao ra chợ mua cho thằng nhỏ ít bộ đồ. Mày lên đó biểu vợ thằng Thạch đưa con xuống cho tao nựng vài bữa, nhớ nó quá!”.

Minh gật gù lắng nghe. Vậy là ngày mai anh sẽ được lên núi gặp ông Ba Thần Sầu, nghe cái tên đã thấy hay rồi.

*

Hai người đeo ba-lô lên núi. Long nhẩn nha kể chuyện: “Ba tao dạy văn, dạy nhạc, ổng hiền lành, hay nể bạn, uống say kiếm chỗ nằm ngủ.

Một tối, má tao đang may vá, bỗng kim đâm vô tay chảy máu. Linh tính và nóng ruột, má biểu tao bận áo mưa đạp xe đón ba. Tao mới chạy được nửa đường thì thấy lu bu phía trước, người ta vừa vớt xác hai ông lên, một ông là ba tao! - Long ứa nước mắt, nghẹn ngào: Trời mưa lớn, ông bạn chở ba tao trợt bánh lọt xuống ao. Hai ông đều say, níu nhau chết chìm! Anh em tao mồ côi cha từ đó.” Minh gật: “Má mày sợ là phải. Thôi từ giờ tụi mình tránh nhậu nhẹt nghe?”

Mưa không lớn nhưng dai dẳng, ông Ba ngồi trên chòi tre được cột chắc giữa chặng ba cây xoài, đưa mắt nhìn quanh vườn và trang trại mình. Ông khoái ngồi trên cao này, gió vi vu, lá cây xào xạc. Ở đây ông có thể quan sát rừng lim mới trồng bên suối. Những hôm trời quang, không cần ống dòm ông cũng thấy được dòng sông Long Chúc mầu xám bạc từ Campuchia chảy sang Việt Nam, hòa với kinh Vĩnh Tế. Ông gật gù: Sông nước bình yên rồi, nhưng vẫn phải dòm chừng.

Ông Ba bồi hồi nhớ lại: Trên dòng kinh đó, một đêm mình đã lặn hụp gài mìn nam châm hẹn giờ đánh chìm hai tàu tuần dương. Hà! Chuyện đó đối với lính đặc công nước như mình cũng nhanh, cũng dễ! Tướng Yết Kiêu ngày xưa đục thuyền giặc Mông bằng búa rìu mới thiệt là giỏi.

Ông ngước nhìn đỉnh Ngọa Long Sơn, dáng đầu rồng trầm tư trong mưa. Chỗ cao nhứt đó, phía dưới có nhiều hang động kiên cố, địa thế công thủ đắc lợi. Trên đó ngày xưa hai ông Thiên Hộ Dương và Thủ Khoa Huân từng họp bàn đánh Pháp. Rồi thời chống Mỹ trở thành căn cứ Ô Tà Sóc. Mình hoạt động vùng đó gần chục năm trời, bao kỷ niệm sinh tử, núi rừng rồng thiêng che chở cho mình. Mà thiệt! Cái đêm mình ham săn, theo dấu con heo rừng tới Trảng Voi. Không có con heo đó mình lọt vô ổ biệt kích rồi. Chúng tưởng chỉ có con thú nên hè nhau đuổi bắn. Con thú chạy ngược lên rừng. Mình nằm im chờ địch qua, rồi rút xuống trảng. Ai ngờ thấy chiếc trực thăng hai đầu(2) đáp đó tự hồi nào. Con sâu róm khổng lồ này chuyên đổ bộ lính biệt kích. Mình nghĩ lẹ: Một mình cũng chơi, phải nổ súng báo động cho đồng đội trên núi.

Mình mò tới hạ thằng xạ thủ súng máy, chơi thêm trái lựu đạn, may trúng thùng xăng nên trực thăng nổ banh.

Mình băng rừng chạy. Tụi biệt kích hốt hoảng thấy trực thăng cháy, tưởng vici đông nên hổng dám rượt.

Sau này kể lại, cánh báo chí nói mình hay. Mình nói tui hên thôi. Không có con heo rừng thì tui tiêu rồi.

Ông Ba trầm ngâm: Chiến tranh đi qua, mình đã chiến thắng, nhưng mới được vài năm thì bất ngờ xảy ra thảm họa, cha mẹ và vợ con mình bị chết trong hầm chùa Phi Lai, sư sãi cũng bị giết sạch.

Nghe tin mình khóc hết nước mắt. Đau khổ tột cùng! Căm hận tột cùng! Mình điên cuồng lao ra chiến trường giết giặc trả thù cho gia đình, trả thù cho dân lành bị Pôn Pốt sát hại.

Hai năm lăn xả ở chiến trường Campuchia, mình đã trăn trở suy nghĩ rất nhiều: Chiến tranh, tranh giành, giết chóc, hận thù… Rồi trả thù, trả hận… Cứ vậy thì tới bao giờ mới hết chiến tranh, mới hết hận thù?...

Hèn chi trên thế giới hết nước này tới nước kia xảy ra chiến tranh.

Mình thuộc loại dữ dằn, từng bắn giết nhiều muông thú, bắn giết người, có lúc nhiều người, mà chẳng hề run sợ. Lúc đó mình nghĩ diệt trừ kẻ ác đã hại anh mình, hại nhiều người, là hợp lẽ, là đúng, thay trời hành đạo.

Chắc vì vậy mà mình phạm vô luật nhân quả? Cha mẹ và vợ con mình chết, có phải tại mình không? Sao mình không chết mà bắt những người thân yêu phải chết?

Ông Trời bắt mình sống để nhìn lại đó mà!…

Cho tới khi xảy ra trận đánh thầm lặng ghê gớm đêm đó, mình đã suy nghĩ thêm nhiều, rất nhiều, để đi tới quyết định.

Diệt Pôn Pốt xong, mình xin nghỉ, lên núi làm rẫy.

Nhiều người thắc mắc. Thôi kệ! Họ đâu biết mình xin nghỉ vì còn có nguyên nhân khác nữa.

Mình trăn trở hoài! Mấy lần tính thú thiệt xin lỗi ông An, không ngờ ông hy sinh cùng với bạn đồng đội đêm đó! Mình đau buồn khóc trước bàn thờ di ảnh ông An: “Đêm đó em đã trái lệnh anh, lại còn dối anh. Xin anh tha tội…” Ánh mắt chỉ huy hiền lành nhìn mình như tha thứ, thông cảm…

Nhưng đó là thú tội với người chết. Còn đối với người sống, mình vẫn chưa dám.

Dù không ai biết nhưng trời biết. Mình thấy hổ thẹn, không xứng đáng. Mình xin về là vì vậy.

Giờ mình già rồi, chuyện cũ xa rồi. Mình đã tính chôn giấu, nhưng mỗi lần nhìn khúc sông lại nhớ.

Giờ mình nghĩ nên nói ra sự thực, chẳng hại ai, có khi lại hay, không phải thanh minh mà để giải tỏa cho lòng nhẹ nhàng. Nói với vài người hiểu mình thôi.

Ông Ba lắc đầu: Ký ức chiến tranh mệt mỏi đau đầu quá! Muốn quên cũng không được. Thôi nghĩ về chuyện khác, chuyện gì vui cho quên đi…

Ông quay nhìn về phía lưng đồi, bên trái nhà mình, một vùng hoa trái rộn rã sắc màu.

Cha ông ngày xưa mê cây cảnh, ông cũng mê. Hai cha con bày biện nhiều chậu hoa đẹp trước sân nhà. Mẹ và vợ ông trồng hoa màu. Mẹ cặm cụi làm cỏ, con dâu chăm chỉ gánh tưới, mùa nào cũng dư rau ăn.

Vợ ông yêu hoa, nhất là hoa hồng, nàng bỏ công trồng thêm vài luống hoa đủ loại, để được ngắm, được cắt tỉa đem vô nhà chưng và cho hàng xóm chớ không bán.

Giờ những người thân ấy đã mất. Ông không muốn ở lại ngôi nhà cũ đã xảy ra thảm cảnh kinh hoàng. Ông lên núi lập nghiệp, dành hẳn một khoảnh đất rộng gần hàng mộ để trồng cây và hoa mầu mà tưởng nhớ họ. Mỗi khi nhìn vườn hoa, chăm sóc cây cảnh, ông được hồi tưởng lại, được chìm đắm vào kỷ niệm.

Hình ảnh cha ông chậm rãi uống trà, hút thuốc… Mẹ ông làm cỏ, vợ ông tưới cây, thằng con trai ba tuổi của ông lanh chanh chạy qua chạy lại.

Vui nhất dạo gần Tết, gia đình tập trung lặt mai, cha ông thủng thẳng tỉa lá những cành mai dưới thấp. Vợ ông phụ cha mẹ chồng, giữ thang cho ông leo lên lặt lá những cành cao. Ông trên cao lâu lâu cứ phải dòm chừng thằng con, không thấy nó là gọi.

Mỗi khi ông xuống thang uống nước, thằng Bi chạy sà vào lòng ông, nũng nịu đòi cha hái ổi hái cam. Ông bồng con nhấc bổng lên cho nó tự tay hái, Bi khoái quá cười vang. Ông xẻ ổi, xẻ cam rồi biểu con bê mời ông bà, mời mẹ, Bi ngoan ngoãn vâng lời, nó đi tới đâu niềm vui tới đó. Ông bóc cam cho con ăn, nó chỉ ăn vài múi rồi dựa đầu vào ngực ông thiu thiu ngủ.

Ông chớp mắt, hạnh phúc ngập tràn! Thế mà!

Những hình bóng thân yêu nhạt nhòa…

Ông tránh nhìn về phía ngôi mộ mà ngước lên trời, lẩm bẩm: Mưa ngớt rồi, ngồi đây cứ suy nghĩ hoài! Xuống thôi!

Ông lần dò xuống cầu thang tre, gật gù: Thằng Thạch mới cột chắc lại đây… Nó sợ mình leo lên leo xuống lỡ té.

Ông nhớ lại mà thương đứa con nuôi. Năm ngoái nó một mình cõng vác năm chục bao xi măng và hàng đống vật liệu lên núi, xong kêu thợ xây mả cho cha mẹ và vợ con mình, làm cả nhà mồ bốn mái che mát. Nó nói nhà lớn xong rồi, vài năm nữa xây nhà mình nghe ba, sẵn đó con lên lầu cao, thay cái chòi cho ba lên ngắm cảnh. Thằng biết lo và tính toán. Nó làm gì cũng hỏi mình, không để mình làm việc nặng…

Thằng Tèo con nó mới hay chớ! Hễ thấy mình là đeo.

Bỗng có tiếng ếch kêu thảm, từng chập rồi đuối dần… Ông Ba lặng nghe rồi lắc đầu.

Sắp xuống tới mặt đất, ông thấy Thạch và Long cầm rựa chạy ra, Minh và cu Tèo đứng ngay cửa.

Ông bước vô nhà, thằng nhỏ ôm chặt hai chân ông.

Chặp sau thì Thạch và Long về, một tay Thạch lủng lẳng con hổ chúa đã bị chặt đầu, một tay cầm con ếch bự xuôi xị.

Thạch dùng mũi rựa rạch bụng ếch, lòi ra con cua nhỏ.

Ông Ba lắc đầu: “Đúng là mạnh được yếu thua!” Rồi trách Thạch: “Con giết rắn làm chi?”

Thạch líu ríu: “Nó dữ quá! Ngậm con ếch rồi mà còn phóng tới tính đớp con…”.

Ông Ba thở dài.

Minh cúi nhìn con cua coi bộ thắc mắc. Ông Ba giải thích: “Con ếch chui vô hang cua, ở ké, nhắp nước bọt cua phì ra, chờ khi cua lột, nó đớp cua liền, bị rắn nuốt cũng đáng tội”.

Minh ngơ ngẩn, lúc sau mới rụt rè hỏi: “Thựa dượng, nãy con nghe dượng nói Mạnh được yếu thua. Con mạnh ăn con yếu… Con người mạnh nhứt... Vậy?...”.

Ông Ba nhìn Minh, gục gặc đầu: “Hay! Mày chịu suy nghĩ. Mày muốn hỏi ai ăn con người chớ gì? Tao cũng đã suy nghĩ rất nhiều về chuyện này. Suy nghĩ rất nhiều. Hà! Từ chuyện của tao mà ra thôi. Tao nghĩ ngoài ông Trời, thì con người tranh giành hủy diệt nhau, người ăn người đó”.

Minh và Long lơ ngơ. Ông Ba cười: “Tối nay, đứa nào muốn nghe, tao kể cho mà nghe.

*

Đêm đó trời nhiều sao, mặt sông Long Chúc lấp lánh, gió từ hướng Campuchia thổi về phía ba chiến sĩ ngụy trang đang phục gần cột mốc biên giới. Đêm nay tổ đặc công nước có nhiệm vụ trinh sát địch bên kia sông, hầu lập phương án để bộ đội tiến công.

Trong gió nghe có tiếng róc rách, tiếng người lào xào… Tổ trưởng An ra hiệu cho anh em nằm xuống.

Máu Ba Hay sôi lên! Tụi nó qua giết dân mình nữa đây! Anh ghé tai chỉ huy: “Tụi nó chắc đông. Anh để em lặn ra trinh sát, chúng ít em sẽ xử, đông thì hai anh cứ xả súng báo động cho quân mình hay”. Trung sĩ An gật đầu.

Kình ngư Ba Hay dắt lưỡi lê vô thắt lưng, cuộn súng vô bao nylong, rồi nhẹ nhàng bơi ra…

Được một quãng, Ba nghe phía trước có tiếng nước động, sóng chao mạnh, anh biết sắp giáp địch.

Ba ngậm ống thở, hụp đầu lặn một hơi tránh xa bọn địch rồi mới ngoi lên.

Dưới ánh sao, anh thấy lô nhô khoảng chục đầu người. Ba lẩm bẩm: Tụi này cũng khôn, bơi hàng dọc, đứa này cách đứa kia chục mét, đề phòng đứa bơi đầu bị lộ thì những thằng sau kịp thoát. Bọn quỉ tới số rồi.

Ba chờ cho tên bơi cuối vừa qua chỗ mình, anh hít một hơi dài rồi hụp xuống lặn theo sau. Tới gần, Ba ngoi lên từ dưới bụng hắn, tay trái chụp cổ địch, tay phải cứa mạnh lưỡi lê vô yết hầu. Sông như nghẹt thở, ục một tiếng nhỏ rồi im. Tên bơi phía trước không hay biết gì.

Ba lại hít mạnh hơi, lặn xuống bơi nhanh về hướng kẻ địch tiếp theo.

Cứ vậy, Ba hạ sát nhanh gọn những tên giặc.

Đến tên cuối bơi đầu, Ba kề dao vô cổ hắn kéo lên bờ.

Đồng đội anh đã chờ sẵn, cột thúc ké tên địch bắt ngồi xuống.

Ba thạo tiếng Khơmer là nhờ vợ. Trung sĩ An cũng biết nói sơ. Hai người thẩm vấn nhanh tên địch. Hắn sợ hãi khai có nhiều quân Pôn Pốt bên kia sông, có xe tăng…

Sau mươi phút, chỉ huy An hất mặt ra hiệu cho Ba đưa hắn vô rừng. Đêm nay tổ của anh phải qua sông.

*

Ông Ba kể tới đây rồi chậm rãi uống nước.

Long nóng ruột: “Rồi sao dượng?”

 “Tao đang phân vân thì nó khóc rống, sụp xuống ôm chưn tao kêu: Âu ơi! Âu ơi!!!  Tức: Cha ơi! Cha ơi!! Gương mặt nó trẻ măng đầy ước mắt chừng 15 tuổi chớ mấy. Hồi nãy tao giết một hơi cả chục thằng Pôn Pốt không ghê tay, vì căm thù, vì chúng sang sông tính giết dân mình. Nhưng giờ, thằng con nít này là tù binh, nó sợ chết khóc lóc gọi tao là Cha ơi!!! Tao làm sao xuống tay được?

Tao chỉ tay về hướng sông, nói mày bơi về đi. Nó lắc đầu: Về đó Pôn Pốt giết con. Cho con theo cha. Tao lắc đầu. Nó cứ ôm chưn tao, năn nỉ. Sợ đồng đội chờ, tao dẫn nó lên đồi, biểu trốn trên này, gặp quân tao là mày chết.

Tao quay lại bờ sông, nói với ông An là phải chôn nó nên hơi lâu”.

Minh hỏi ông Ba: “Sau,… dượng có gặp lại hắn không?”

“Có. Hai năm sau, tao lên núi làm rẫy thì bất ngờ gặp lại, nó chạy tới ôm chưn tao, khóc kêu “Cha ơi!!!” Lúc đó tao mới nhận ra nó. Tao hỏi sao mày không về với gia đình? Nó nói cha mẹ và chị đã chết trong đợt diệt chủng. Nó trở lại đồi nơi tao đã chỉ cho trốn, kiếm ăn qua ngày. Nó trụ đó làm rẫy và tìm tao suốt hai năm trời. Nó nói giờ con chỉ còn biết có cha thôi. Cha đã tha con, cứu con, chỉ cho con chỗ làm ăn. Con phải ở đây chờ gặp cha. Trời thương! Tao cũng mất cả cha mẹ, vợ con, tao nhận nó làm con nuôi, cha con hạp nhau mần ăn cho tới bây giờ.”

Vừa lúc đó thì có tiếng trẻ khóc. Thạch ẵm con lên nói với cha: “Nó đòi ngủ với ông nội đây nè.”

Ông Ba quay ra, cười, rồi ôm chặt thằng nhỏ, nó rúc đầu vô ngực ông. Ông chợt thấy thằng Tèo sao giống hệt con trai mình ngày xưa quá!

Ông rớt nước mắt, lẹ tay quẹt ngang. Minh và Long kịp trông thấy, ông lúng túng nói nhỏ: “Tao tưởng mình hổng khóc được nữa!...”.

_______

1. Núi Yên Tử - nơi Phật Hoàng Trần Nhân Tông tu luyện

2. Trực thăng CH - 47F Chinook có hai cánh quạt ở hai đầu, dài 30,1m, đường kính thân bụng 14m, cao 5m7, chuyên vận tải quân sự, chở tối đa 55 binh sĩ với đầy đủ trang bị vũ khí.

Truyện ngắn dự thi của Phan Đức Nam

Nguồn Văn nghệ số 48/2023


Có thể bạn quan tâm