May 3, 2024, 1:23 am

Nhớ làng, mùa Ning nơng…

I

Mới 8 giờ sáng, vòm trời Ia Mơr đã tràn ngập nắng. Mùi nắng hanh heo khô giòn xộc vào khứu giác. Làng vắng ngắt. Siu Pơ đang ngồi đợi tôi bên chiếc cầu thang nứt nẻ. “Người ta đi hết cả rồi. Chỉ những cái chân  không leo được dốc nữa mới chịu ngồi buồn thôi”.

Lần đầu tiên trong đời tôi đi nếm thử cái cảm giác “Ning nơng” đây. Hằng năm sau Tết Nguyên đán, khi lúa đã suốt xong cất vào kho, người Tây Nguyên sẽ bước vào tháng Ning nơng. Sau một năm quần quật trên rẫy, đối mặt với đủ thứ lo toan trong cuộc sống, con người cần phải dành thời gian trở về cội nguồn, hòa mình với thiên nhiên để quên đi mọi nỗi khó nhọc, ưu phiền trước khi bước vào một mùa rẫy mới. Nói theo cách của cuộc sống hiện đại là để “thư giãn” - Siu Pơ giảng giải cho tôi như vậy, và anh cho biết thêm: Điều khác biệt trong tháng Ning nơng là việc săn bắt, hái lượm không dùng đến các phương tiện văn minh; không vì mục đích kiếm sống, không cần cái mà ta gọi là “hiệu quả kinh tế”. Cả ngày lang thang trong rừng, có khi chỉ kiếm được vài chùm quả dại hoặc con chuột nhỏ - thậm chí trở về tay không, họ cũng chẳng lấy làm điều, để rồi hôm sau lại tiếp tục cuộc hành trình vô định…

Đồng bào Tây Nguyên vào mùa Ning nơng. Ảnh: Dân tộc và Phát triển

Chẳng biết đã qua được bao nhiêu cây số đường rừng nhưng hai đầu gối của tôi đã bắt đầu cứng lại. Những nếp nhà dưới chân dốc trông về như những chiếc nấm hiu hiu trong chập chờn gió thoảng. Rừng Ia Mơr là rừng khộp - và như tên gọi của nó, chỉ miên man một giang sơn của những loài cây lá rộng, nhưng chủ đạo vẫn là dầu. Những cây dầu vỏ rắn cấc sần sùi, đứng đơn độc trông khắc khổ già nua là thế, vậy mà khi tụ lại, chúng vút lên lực lưỡng, cường tráng như thể khẳng định cái thế làm chủ giang san bất diệt. Và bây giờ thì tôi bỗng như lạc vào một xứ sở vàng. Miên man một sắc vàng! Những chiếc lá khộp như vàng ai dát tung lên chấp chới cả không gian. Nắng cũng mỏng như tấm lụa vàng choàng lên cây cỏ. Hàng đàn bướm rập rờn như phoi vàng ai rắc. Những bụi le rắn cấc lá cũng bủng vàng, từng đốt thân cũng chóe lên một sắc vàng pha loãng. Một tiếng ve lẻ loi cất lên ngắn ngủn cũng đủ khua động cái tĩnh lặng đến lạ kỳ của đại ngàn đang tiết xuân thì…

Mải ngắm bức tranh vàng siêu thực, tôi dường như quên mất Siu Pơ đang ở đâu. Một tiếng hú dài vọng đến lay tôi ra khỏi ảo giác. Lần theo tiếng hú, tôi đến một bãi đất bằng ven suối. Pơ đang dọn chỗ nhóm lửa chuẩn bị cho bữa trưa này… Quày quả một lúc, anh đã mang về một xâu cá. Những con cá suối to bằng cán dao, mình tròn như cá đối, vảy ngời ánh bạc. Pơ cho hay đây là cá mắc “soai” anh đặt. Bếp lửa than đã hồng. Bỏ từng vốc gạo nếp thơm lừng vào ống lồ ô tươi gác lên giàn lửa, vậy là đã có cơm lam nguyên chất của núi rừng. Thịt bò khô nướng cháy cạnh. Và đây, món cá nướng tươi ròng, mỡ tứa ướt lá cũng vừa xong… Nâng quả bầu trích một dòng rượu cần vào chiếc cốc gọt bằng gốc lồ ô còn nguyên mùi nhựa, tôi cố nuốt thật chậm để cảm nhận cái hương vị thuần khiết lần đầu tiên được nếm của núi rừng. Bẻ một miếng cá chấm với muối giã ớt chỉ thiên cay xé cổ, vị rượu cần ngọt dịu quyện với vị béo của cá nghe cong vắt cái cảm giác hoan lạc đầu chót lưỡi… Ngọn lửa trong tôi từ từ thức dậy, dịu êm rồi bùng cháy. Xung quanh tôi nắng nhễu từng giọt vàng ươm lên mặt đất. Gió khẽ khàng như gót chân ai vọng đến từ một cõi rất mơ hồ. Cứ mỗi cốc rượu tôi lại lùi thêm một quãng với cuộc đời đang sôi động ngoài kia. Trong veo trong tôi chỉ còn bản ngã. Và rừng…

Một tiếng hú dài vọng đến lay tôi bừng thức. Sau tiếng hú đáp của Pơ, một tốp đông đàn ông lẫn đàn bà tiến đến. Người nào cũng lủng lẳng trên tay một xâu chuột. Những con chuột rừng to như bắp chân, lông vàng khé còn bị kẹp nguyên trong bẫy. Không đợi lời mời, họ cứ tự nhiên nhập cuộc như đã hẹn hò. Người nướng thêm cá, người làm thịt chuột… Cả một góc rừng xao động hẳn lên như hội làng. Đang từ đối tửu, tôi thoắt chuyển sang tiệc rượu cộng đồng. Chẳng quan tâm tôi là ai, từ đâu tới, cứ phải bình đẳng một cốc rượu đầy lần lượt quay vòng. Và cứ xong một “tua”, miếng thịt chuột thơm lừng chấm muối ớt cay xè lại được ấn vào miệng tôi. Chợt thấy lòng dậy lên một cảm xúc yêu mến vô bờ với những con người đầu tóc rối bù, chân đất và con dao bất ly thân, chỉ mới khoảnh khắc đây thôi hãy còn khiến ta e dè… Đã chung tiệc rượu, hãy bỏ bên ngoài mọi sự định kiến hình thức. Bạn đã chung với tôi can rượu tức là đã cởi mở cả tấm lòng - và tôi sẽ đền đáp bạn bằng thứ ngôn ngữ vô tư của rượu… Bài học đầu tiên về “văn hóa rượu”, tôi đã học từ những con người thô tháp như lõi cây rừng là thế…

Tôi thức dậy với cảm giác con người hóa lửa của mình dịu đi bởi sự mát lành của một con suối nhỏ. Một người đàn bà trẻ ấn vào tay tôi trái bầu con đựng nước, nở nụ cười bẽn lẽn rồi chạy vụt đi. Tôi tu một hơi dài dòng nước mát lành thoang thoảng mùi bùn và lá cây mục rồi cố sức đứng lên…

Bình minh đã ló rạng trên ngọn cây rừng. Quanh đống lửa còn thoi thóp khói, những đàn ông, đàn bà nằm lăn lóc. Một người chống tay ngồi dậy, đảo mắt nhìn quanh rồi bỗng hú lên. Tiếng hú của mùa Ning nơng ông đã kéo tôi về thực tại - rằng tôi đang trước chân trời của buổi bình minh…

Cái cảm giác hoan lạc, tươi ròng trong tôi cứ dần vơi theo từng bước chân xuống núi. Một ngày được hòa mình giữa thiên nhiên thuần khiết, ăn những món lấy từ thiên nhiên thuần khiết, chẳng có gì gọi là cao sang mĩ vị, vậy mà bao năm rồi vẫn cứ lâng lâng như là được trở về từ cội nguồn của sự sống tươi ròng, viên mãn…

II

Mảnh trăng đầu tháng trông như miếng cà ai cắn dở quẳng lên ở cuối rừng mà không gian vẫn hầm hập nóng. Trận cháy rừng mới tràn qua lúc chiều. Ngọn lửa âm ỉ trong thân cây mục chốc chốc lại hực lên.

Bây giờ đang là tháng Tư. Rừng ám khói bởi những đám lửa dọn rẫy ngày nối sang ngày. Ngồi trong chòi rẫy mà tôi và ông Dú vẫn cảm nhận được hơi nóng từ những đám cháy rừng phả tới. Lửa tàn sát sự sống của rừng nhưng rồi nó cũng mang lại cho cỏ cây một sức sống mới. Nhạy cảm với những thứ lộc non tơ đầu mùa này tất nhiên không ai hơn bầy thú. Và như thế mùa săn đã bắt đầu…

Ở Ia Puch này ông Dú là một “cựu thợ săn” được nhiều người biết tiếng. Vào tuổi 14-15, Dú đã dám đi săn một mình. Ban ngày ông có thể dùng kèn lá giả tiếng mang hoặc nai con để dụ mẹ chúng lại mà bắn. Đặc tính của loài thú này là hễ cứ nghe tiếng thú con kêu thì tìm đến, không biết rằng vì sự “thương người” mà mang họa… Cái vốn săn bắn dân gian được rèn thêm tài thiện xạ trong suốt mấy năm là bộ đội đã khiến người ta tin chắc rằng đã xách súng vào rừng là chẳng mấy khi Dú về không. Ấy thế nhưng từ lúc rời quân ngũ, người làng có rủ rê thế nào ông cũng cự tuyệt. Điều khiến ông quyết từ việc giết thú ấy có nguyên do cũng từ việc đi săn.

Hôm đó Dú và một cậu chiến sĩ xách súng vào rừng định kiếm một con thú gì đó để đơn vị cải thiện. Rủi thay ra đi từ chặp chiều cho đến xuyên đêm mà chẳng gặp con gì. Mệt quá, hai anh em đi đến một tảng đá lớn bên suối nằm lăn ra nghỉ. Lúc này trời cũng vừa tang tảng sáng. Thốt nhiên một đôi vợ chồng khỉ bế theo một chú khỉ con từ đâu bỗng chuyền cành đến. Lúc ở làng Dú không bao giờ bắn khỉ, nhưng lúc này nghĩ đến anh em thương binh đã nửa tháng nay không có gì bồi dưỡng, và cậu chiến sĩ đi cùng thì cứ giục bắn, chần chừ một lúc rồi Dú đưa súng lên. Chủ tâm của Dú là nhằm vào con khỉ đực, vậy mà chẳng hiểu thế nào viên đạn lại xuyên trúng con khỉ cái. Con khỉ loạng choạng nhưng đã kịp bíu lấy cành cây. Chuyển con sang cho khỉ đực, khỉ cái bứt một chiếc lá cuốn thành chiếc phễu. Dốc hết sức tàn, nó vắt đầy một phễu sữa trao cho khỉ đực rồi từ từ buông tay rớt xuống… Nhìn thấy cảnh đó Dú buông rơi cây súng, hai tay ôm lấy mặt. Còn cậu chiến sĩ đi cùng thì ngây ra thẫn thờ… Trĩu nặng trong lòng nỗi ân hận, họ quyết định dùng dao găm đào một chiếc hố bên bờ suối chôn con khỉ cẩn thận rồi mới đi về…         

Ông Dú kể rằng trước khi luật cấm săn bắt thú rừng của Nhà nước ban hành thì xa xưa trong quá khứ, người Jrai và nhiều dân tộc ở Tây Nguyên đã có “luật” săn bắn thú rừng của mình. Dĩ nhiên đó là những quy ước bất thành văn nhưng mọi cộng đồng, và nhất là những người đi săn đều tuân thủ một cách tự giác. Thời thú rừng còn nhiều, người Tây Nguyên vẫn có thói quen đi săn tập thể. Tập thể ở đây có thể là một làng nhưng cũng có khi tới hai, ba làng - tùy theo đàn thú mà họ đoán định. Biết được nơi ẩn nấp của chúng rồi, người ta bắt đầu dùng mõ, nồi niêu khua dồn chúng lại. Khi hàng rào người đã thít chặt được bầy thú, những người có kinh nghiệm nhất, dũng cảm nhất sẽ được lựa vào vòng trong. Mỗi người cầm một cây le dài, vót nhọn làm vũ khí. Với những loài hiền lành như nai, mang thì chẳng có gì đáng sợ. Nhưng với những loài hung dữ như heo rừng, nếu không có kinh nghiệm cũng có thể mất mạng như chơi… Đó là những cuộc đi săn hồi hộp đến ngộp thở. Trong tiếng mõ, tiếng kêu la xé rừng của bầy thú lồng lộn như điên dại để tìm lối thoát, người ở vòng trong phải tự mình lựa chọn cơ hội để diệt chúng. Nhưng bất luận cơ hội nào thì những con thú nhỏ, những con đang có chửa nhất thiết phải để chúng lại. Khi lượng thú bị giết áng chừng đã đủ chia, già làng sẽ cất tiếng hú ra hiệu dừng tay. Hàng rào sẽ được mở ra cho chúng thoát… Giết thú chỉ vừa đủ ăn là một quy ước nên không bao giờ người ta giết dự trữ để ăn dần và không bao giờ được giết cả bầy thú - dù bầy thú chỉ có một vài con… Thế nên trong lễ cúng trước mỗi cuộc đi săn, già làng bao giờ cũng “cắt nghĩa” với Yang rằng “Chúng tôi chỉ xin Yang vừa đủ. Nếu giết hết giống của Yang, xin Yang hãy trừng phạt chúng tôi”.

Người thợ săn xưa kia dù giỏi mấy cũng chỉ được giết một số lượng thú nhất định. Vượt quá số lượng đó thì tự giác không đi săn nữa. Và với người dân tộc bản địa, có những loài thú không bao giờ họ đụng đến, chẳng hạn đồng bào Bah Nar thì đấy là cọp. Họ coi cọp như là một vị “thần” và không bao giờ săn chúng. Ngoài ra một số dòng họ còn kiêng những con “vật tổ” của mình như nhím, tê tê…

Dung dưỡng tự nhiên để sinh tồn - nét “văn” của người Tây Nguyên đã có từ thời xa xưa như thế.

III  

Bắt đầu là những cơn gió. Những cơn gió bất thường mọc lên như bão. Rừng rùng mình giũ sạch cái khối hơi ẩm tích đọng từ những cơn mưa lê thê để ló ra sắc vàng cháy của dã quỳ. Mùa rẫy đến…

Tôi tìm về Dít Le chơi với bạn là giáo viên “cắm làng”. Đường vào Dít Le ngợp giữa hai bức tường dã quỳ rừng rực. Từng mảng lúa chín nhấp nhô giữa triền xanh ngăn ngắt. Trong cái nắng rất mỏng của mùa khô mới chớm, cảm giác như là những dải vàng được ai dát ra giữa lưng chừng dốc. Tiếng mõ đuổi chim, tiếng suối đàn t’rưng lảnh lót như vờn thêm sắc vàng cho từng gié lúa. Thỉnh thoảng một tiếng hú vọng đến để liền sau đó là những tiếng hú đáp trả, dài như níu cả hai bờ núi. Đại ngàn tĩnh mịch như chợt ấm lên…

Trường học của bạn tôi ngay đầu làng. Gọi là “trường”, thực tế nó là căn nhà hoang được dân làng sửa lại. Một bên làm lớp học, phần nhỏ làm nơi ở cho hai giáo viên. Làng vắng ngắt. Giờ này trẻ con, người lớn đã lên rẫy hết, chỉ còn mấy cụ già ngồi sưởi nắng trước hiên nhà. Từng đàn lợn sề nhởn nhơ quanh những vũng nước nhoét nhoe dưới gầm sàn. Cơm đổ trắng đất mà chúng chẳng buồn ăn… Bạn tôi rủ chiều lên rẫy suốt lúa với bà con. Học sinh đang kỳ nghỉ mùa, ở nhà chẳng biết làm gì. Cả tuần nay ngày nào anh cũng đi suốt lúa. Cứ được ba gùi thì bà con trả công một gùi. Thực ra cả hai thầy giáo đã được dân làng góp gạo nuôi. Đi suốt lúa thuê chỉ là cái cớ để đỡ buồn và cũng là cái thú được chiêm nghiệm “văn hóa nương rẫy”. Thú thực lúc đó tôi vô cùng ngỡ ngàng trước điều mà anh gọi là “văn hóa nương rẫy”. Xốc chiếc gùi đựng bữa ăn trưa cho hai người lên vai, vừa đi anh vừa giảng giải cho tôi hiểu vì sao…

Là nguồn sống chủ yếu của con người nhưng lại rất mong manh trong điều kiện tự nhiên không kém phần khắc nghiệt, cây lúa rẫy bởi vậy từ bao đời đã được đồng bào Tây Nguyên nói chung và người Bah Nar dành cho rất nhiều sự nâng niu, ưu ái… Người Bahnar có nhiều lễ hội nhưng tựu trung được phân thành hai hệ thống: lễ hội dành cho cây lúa rẫy và lễ hội cho một đời người. Trong vòng đời 9 tháng, cây lúa rẫy được con người dành cho đến 9 lễ hội thì đủ chứng tỏ sự tôn vinh đến nhọc nhằn cái nguồn sống nuôi mình… Trừ một đôi lễ mang tính cộng đồng được tổ chức tại làng, phần lớn chúng được tổ chức trên rẫy. Là nơi trú ngụ của các Yang và hồn lúa, rẫy với đồng bào là cả một thế giới tâm linh; là vùng đất được giữ gìn thanh khiết. Một sự uế tạp nào xảy ra trên rẫy cũng có thể khiến các Yang bất bình, hồn lúa giận dỗi bỏ đi…    

Chúng tôi ngược lên con dốc ngắn rồi men theo lối mòn khúc khuỷu để tới khu vực rẫy làng. Bạn tôi bảo “không bao giờ sợ lạc đường” và chỉ vào những sợi dây rừng giăng suốt từ làng ra tới rẫy. Đồng bào làm như vậy để hồn lúa biết mà theo về nhà… Những ô lúa vàng như chiếu trải, rưng rức chín đã hiện ra trước mắt tôi. Mỗi ô có khoảng bốn, năm người đang cặm cụi suốt lúa. Tôi đi tới ô rẫy gần nhất để xem cái kiểu thu hoạch lần đầu được thấy trong đời. Họ đeo mỗi người một chiếc gùi nhỏ trước bụng, tay trái nắm chặt đầu bông, tay phải tuốt hạt vào gùi, thong thả nâng từng bông, cứ như là nhẩn nha niềm sung sướng của mình… Mùa suốt lúa như vậy có thể kéo dài tới một, hai tháng. Chẳng ai sốt ruột, chẳng ai nghĩ tới cách làm khác. Với đồng bào cắt ngang thân lúa như người Kinh là cắt rời hồn lúa; đập lúa là làm đau hồn lúa, thần lúa sẽ sợ hãi bỏ đi - và như thế sẽ mất mùa đói khát. Còn việc làm rơi rụng lúa - ấy là để trả ơn đất đã có công nuôi dưỡng cây lúa sinh thành…

Nắng mỏng dần từng lớp, hoàng hôn chớm thoa son trên những dãy núi xa mờ cũng là lúc một ngày thu hoạch kết thúc. Cái làng thiếp ngủ ban trưa bỗng như thức dậy. Khi lũ trẻ con ào ra với thế giới đồ chơi nghèo nàn của chúng thì trên mỗi cầu thang nhà tiếng giã gạo cũng đan nhau thình thịch. Hương gạo mới nồng nàn quánh vào khứu giác. Những người “buôn làng” bắt đầu đi từng nhà cất tiếng chào mời đổi chác. Kẹo, bánh đa, bánh rán… toàn những thứ hấp dẫn trẻ con và cả người lớn nữa. Không một đồng tiền mặt nào, tất cả đều “hàng đổi hàng”. Một lon gạo là năm chiếc kẹo chanh hoặc hai chiếc bánh đa nướng, hoặc bốn chiếc bánh rán nhỏ… Chẳng ai tiếc, chẳng ai suy tính thiệt hơn. Dường như ai cũng thả tự do cái nhu cầu hưởng thụ của mình trong mùa no đủ - dù có thể chỉ vài tháng sau mùa suốt lúa không ít nhà phải ăn sắn hay củ mài thay cơm…

Hơn ba chục năm rồi nhưng cái mùa rẫy được mục sở thị đầu tiên ấy, cái bữa cơm gạo mới với muối ớt chỉ thiên chấm cà đắng ấy vẫn còn trong ký ức tôi như một bữa tiệc cao sang nhất. Đấy là cảm giác sung sướng của tôi - một đứa con của ruộng đồng được thấy lại cái hương mùa trong veo, đích thực đã mất đi vĩnh viễn từ ngày các giống lúa mới lên ngôi…

Chợt bâng khuâng nhớ mùa lúa rẫy, nhớ cái màu vàng miên man trên thung đồi mà thuở ấy chưa ai nghĩ rằng đó là biểu tượng của lạc hậu, đói nghèo…

Nguồn Văn nghệ số 10/2024


Có thể bạn quan tâm