May 5, 2024, 4:50 pm

Nhà văn miền biên ải

VĨNH BIỆT NHÀ VĂN TRẦN HỮU TÒNG

Nhà văn Trần Hữu Tòng sinh năm 1938 quê quán ở Xuân Hội, Nghi Xuân, Hà Tĩnh. Ông nhập ngũ tháng 4/1954 lúc mới 16 tuổi, sau đó làm phóng viên Báo Công An Nhân Dân Vũ Trang (nay là Báo Biên Phòng), rồi chuyển về Báo Quân Đội Nhân Dân. Đến năm 1989, ông chuyển ngành làm Phó cục trưởng, rồi Cục trưởng Cục Văn hóa Thông tin cơ sở - Bộ Văn hóa Thông tin.

Trần Hữu Tòng là nhà văn đa năng, tác phẩm của ông gồm các tập truyện ngắn, tiểu thuyết, ký, thơ. Gần 60 năm cầm bút, ông xuất bản khoảng 40 cuốn sách. Các tác phẩm của ông chủ yếu viết về miền biên giới như: Bầy cọp núi, Ngôi sao biên cương, Phiên gác trăng tà, Bếp lửa đêm rừng, Cánh rừng hai vầng trăng, Cột mốc lúc nửa đêm, Chuyện non ngàn kỳ thú, Chuyện non thiêng biên ải, Bóng vàng chóp núi…

Vì tuổi cao sức yếu bệnh nặng, nhà văn – nhà báo Trần Hữu Tòng đã qua đời vào lúc 17h25 ngày 17/6/2023 (nhằm 30 tháng Tư năm Quý Mão) tại Hà Nội, hưởng thọ 86 tuổi. Tang lễ nhà văn được tổ chức vào ngày 21/6/2023 (tức ngày 4 tháng Năm năm Quý Mão) tại Nhà Tang lễ Quốc gia, số 05 Trần Thánh Tông, Hà Nội; an táng tại Công viên Nghĩa trang Thiên Đức – Phú Ninh, Phú Thọ.

Tuần báo Văn nghệ - Hội Nhà văn Việt Nam xin chia buồn sâu sắc tới gia đình, bạn bè, đồng nghiệp và những độc giả yêu quý nhà văn – nhà báo Trần Hữu Tòng!

Văn nghệ

Khi tâm sự về đường văn nghiệp của mình, nhà văn Trần Hữu Tòng chia sẻ: “Tôi tự nhận thấy mình không phải người được trời cho cái tài hoa thiên bẩm để làm văn chương như nhiều nhà văn cùng thế hệ khác. Tôi đến với văn học là do cuộc đời gian khổ đào luyện nên mình. Các nhà văn khác có thể quan niệm văn học là những gì to lớn hơn, nhưng quan niệm của tôi thì rất cụ thể, viết văn là viết về những cái thiện trên đời, tôn vinh, ngợi ca cái thiện, cũng là để làm việc thiện”. Ấy là ông khiêm tốn, chứ một tác giả là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam từ năm 1981, với hơn 30 đầu sách thì đường văn nghiệp của ông thực sự rất đáng ngưỡng mộ và trân trọng…

Tháng 4 năm 1954, Trần Hữu Tòng nhập ngũ khi mới 16 tuổi và là một trong những người đầu tiên xẻ núi, mở rừng xây dựng đồn biên phòng Cầu Treo. Dẫu sau này ở những vị trí công tác khác, được đi đến nhiều miền đất của Tổ quốc, thì cái tên Nước Sốt - Cầu Treo vẫn là một vùng ký ức sâu đậm trong cuộc đời, và tác phẩm khởi đầu cho nghiệp cầm bút của ông cũng được ra đời nơi biên viễn, để từ đó các tác phẩm viết về biên giới và hình tượng người lính biên phòng cứ bền bỉ gắn với những trang viết của ông trong suốt khoảng thời gian dài bằng cả đời người.

Năm 1959, từ đồn Công an nhân dân vũ trang Cầu Treo, Trần Hữu Tòng được điều về Cục chính trị Công an nhân dân vũ trang và trở thành một trong những thành viên sáng lập báo Công an nhân dân vũ trang – nay là báo Biên phòng. Con đường văn chương đến với ông một cách thật tình cờ. Năm 1963, Cục Chính trị yêu cầu ông lên đồn Biên phòng Leng Su Sìn, huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu cũ, nay thuộc tỉnh Điện Biên -  nơi ngã ba biên giới Việt – Trung – Lào, một tiếng gà gáy ba nước cùng nghe để viết về tấm gương của liệt sĩ Trần Văn Thọ. Ngày đó, anh Thọ đã kiên trì bám địa bàn, bám dân; cùng ăn, cùng ở, cùng làm với đồng bào. Anh dành dụm từng đồng từ khoản lương ít ỏi của mình rồi đi bộ leo núi suốt hai tháng trời về xuôi gùi cái cày và hạt giống lúa nước lên dạy bà con làm ruộng, kêu gọi bà con định cư trồng lúa nước, mang lại một cuộc sống mới cho bản làng nơi đây. Do công tác ở vùng rừng thiêng nước độc, Trần Văn Thọ bị sốt rét ác tính và hy sinh, khi chưa kịp có một tổ ấm cho riêng mình.

Chuyến đi thực tế gian khó đó, cơn sốt rét ác tính đã suýt cướp đi sinh mạng của ông. Trong suốt ba tháng ở cùng đồng bào, vừa chống chọi với bệnh tật, ông vừa thu thập tài liệu để viết thành công tác phẩm Trung với đảng, hiếu với dân, được in khổ nhỏ để có thể dễ dàng bỏ trong ba lô của những người lính trên đường ra mặt trận, góp phần không nhỏ để liệt sĩ Trần Văn Thọ được Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang. “Anh hùng như Nguyễn Văn Trỗi. Dũng cảm như Nguyễn Viết Xuân. Tận tụy với dân như Trần Văn Thọ” – khẩu hiệu ấy đã luôn vang lên trong suốt hành trình chống Mỹ của những người chiến sĩ.  Từ tác phẩm đầu tay này, ông đã dày công viết thành tập truyện Bên dòng Păng Pơi. Người anh hùng đầu tiên của lực lượng biên phòng đã hi sinh tuổi xuân cho biên giới nhưng những gì mà anh đã tạo dựng cho quê hương Hà Nhì nơi cuối trời Tây Bắc đã được ghi lại thật xúc động để các thế hệ tiếp nối thêm hiểu và yêu quý một tấm gương hết lòng tận tụy với nhân dân…

Khiêm tốn một cách chân thành, Trần Hữu Tòng tự nhận mình không phải là người có năng khiếu văn chương bẩm sinh. Ông trở thành nhà văn của vùng biên ải vì ông yêu văn chương và muốn viết về cuộc sống với những hy sinh thầm lặng của đồng đội mình và sự kiên gan giữ đất, giữ bản làng của cộng đồng các dân tộc nơi biên giới - điều mà không phải ai cũng biết, cũng nhìn thấy. Khi đất nước thanh bình, mọi người được đoàn viên trong hạnh phúc gia đình thì vẫn còn những người lính phải lìa xa quê hương lên đường canh giữ nơi tiền đồn phên dậu. Họ là lính biên phòng. Mọi người vẫn hiểu điều đó, nhưng ít ai biết rằng giữa cái lạnh cắt da cắt thịt, người lính vẫn vững vàng bước tuần tra qua đèo dốc trập trùng, lội qua suối sâu gập ghềnh đá sỏi mà lòng vẫn tràn ngập tinh thần lạc quan, yêu đời. Khi cánh hoa mận trắng ngần khoe sắc, nhà nhà vui đón xuân về thì trên suốt dọc dài biên cương tổ quốc, những người lính trẻ chỉ biết nén lại nỗi nhớ nhà để ở lại với đồn, với đồng đội và bà con dân bản. Rồi những trận đối đầu với kẻ thù để bảo vệ từng tấc đất cha ông, bảo vệ sự bình yên trên biên giới. Những hiểm nguy luôn rình rập các anh từ bao kẻ thủ ác hòng gây rối vùng biên và buôn hàng quốc cấm .v.v… Là người lính, nhà văn Trần Hữu Tòng hiểu điều đó hơn ai hết. Mỗi khi có dịp thuận lợi là ông lại lên biên giới để tìm cảm hứng sáng tác và lấy thêm tư liệu để viết. Đường lên biên giới còn quá đỗi gian nan tưởng như sẽ là thử thách đối với nhà văn đã đầy nặng tuổi tác này, ấy vậy mà không có gì có thể nặng hơn tình đồng đội, nghĩa đồng bào. Đặc tính ấy của ông đã khiến không ít người nể phục…

Không chỉ gắn bó với những người lính được ví như cánh chim xanh trên bầu trời biên giới, nhà văn Trần Hữu Tòng còn luôn gần gũi với đồng bào vùng biên ải. Nếu bếp lửa bập bùng dưới nếp nhà sàn mộc mạc đã cho ông biết bao câu chuyện kỳ thú của núi rừng thì nét duyên thầm của người con gái Thái đằm thắm bên sắc thổ cẩm rực rỡ lại gợi cho ông biết dự cảm thú vị. Những câu chuyện giản dị, chân thành như cây rừng của người dân vùng biên không chỉ là nguồn cảm hứng cho các sáng tác của ông mà còn là điểm nhấn quan trọng, tạo sự khác biệt và đa dạng về văn hóa trong văn của Trần Hữu Tòng. Trong các tác phẩm văn học ở nhiều thể tài, thể loại của nhà văn Trân Hữu Tòng, giá trị tư tưởng của tác phẩm và phương pháp xây dựng các chi tiết cụ thể được đánh giá là thế mạnh của ông. Tất nhiên, để có được điều đó đòi hỏi người nghệ sỹ phải có những trải nghiệm thực tế và sự tâm huyết với nghề văn mà tiêu biểu cho nhận định đó là truyện ngắn Rừng Thiêng, một tác phẩm độc đáo đã được trao giải Nhất trong cuộc vận động sáng tác về đề tài Biên phòng năm 2009. Truyện kể về sự mất tích bí hiểm của một chiến sĩ, Trần Hữu Tòng đã tạo dựng lại chân dung của người chiến sĩ đó trong tình cảm của đồng đội, của những người dân bản; và qua sự truy tìm nguyên nhân cái chết của người chiến sĩ đó, ông đã đưa người đọc đến với sự huyền bí, mơ mộng của đại ngàn. Người già trong bản nói rằng, hồn thiêng của người chiến sĩ đã hóa thành một thứ hương thơm đặc biệt lan tỏa vào rừng cây gió núi. Đó là một cách ghi công của đất trời, của nhân dân đối với người chiến sĩ. Cùng với kinh nghiệm đi rừng được đan cài trong nhiều truyện đã đưa người đọc đến với vẻ đẹp hoang sơ của thiên nhiên mà không phải nơi nào cũng có. Trần Hữu Tòng đã tạo nên sức hấp dẫn cho những ai muốn hiểu hơn về cuộc sống vừa nguy hiểm vừa lãng mạn của những chiến sĩ làm nhiệm vụ giữ gìn an ninh ở miền biên giới.

Trong phòng văn của mình, những hòn đá, bức tượng mộc mạc, thô nhám được nhà văn Trần Hữu Tòng coi là những tài sản quý bởi chúng là kỷ vật do bạn bè, đồng đội tặng được ông mang về từ biên giới. Ở cái tuổi xưa nay hiếm của đời người, ông vẫn miệt mài sáng tác, và ký ức của một thời trai trẻ, về những miền đất xa xôi nơi biên ải, nơi những người lính trẻ như ông thuở nào đang làm nhịêm vụ canh giữ biên cương cho Tổ quốc, chưa bao giờ thôi tươi mới và luôn là nguồn cảm hứng dồi dào cho ngòi bút của ông suốt gần 60 năm qua…

 “Ngàn năm non nước biên phòng/ Trao nhau cây súng giữ sông núi nhà/ Người đi ngàn dặm đường xa/ Mang theo phiên gác trăng tà trong mây/ Năm nhăm năm đã về đây/ Chào anh lính trẻ gác thay phiên mình” (thơ Trần Hữu Tòng). Cho đến lúc này khi đã đi xa, những câu thơ ấy của ông vẫn như lời nhắn nhủ gửi lại những người lính trẻ đang vào phiên gác mới với biết bao tin yêu và hi vọng…

Phạm Vân Anh

Nguồn Văn nghệ số 25/2023


Có thể bạn quan tâm