May 5, 2024, 3:27 pm

Một hành trình lặng lẽ tin yêu

Chào mừng thành công Hội nghị đại biểu nhà văn lão thành Việt Nam lần thứ Nhất

Nguyễn Khoa Điềm là nhà thơ tài danh của nền thơ Việt Nam hiện đại. Thơ ông chan chứa tình đồng bào, đồng chí và tình yêu quê hương, đất nước thông qua hình tượng, diễn ngôn và cái tôi đang tư duy mang phẩm tính riêng: giàu chất triết lý, văn hoá và thấm đẫm tính trữ tình đời tư - thế sự.

Dù bận nhiều công việc riêng và gánh vác nhiều công việc trọng đại chung, nhưng lúc nào Nguyễn Khoa Điềm cũng sống hết mình cho nghệ thuật thơ ca. Kết quả của hành trình sáng tạo nồng say đó, ông được nhận lại những thành quả lớn lao bằng những giải thưởng do nhân dân trao tặng, cao nhất là Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật năm 2001 dành cho chùm 3 tác phẩm xuất sắc: Đất ngoại ô, Mặt đường khát vọng và Ngôi nhà có ngọn lửa ấm. Ông có hai bài thơ vinh dự được chọn giảng dạy trong chương trình Trung học phổ thông: Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ và Đất nước - trích chương V của trường ca Mặt đường khát vọng.

Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm thời gian ở chiến trường Trị Thiên…

Là một trong số ít những nhà thơ có quá trình sáng tạo luôn vận động, phát triển và đổi mới từ thời chiến cho đến thời bình, hình thành phong cách và tư duy thơ riêng độc đáo; Nguyễn Khoa Điềm cũng giống như rất nhiều nhà thơ cùng thời, luôn vươn lên giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa chủ thể sáng tạo và khách thể thẩm mỹ. Thời chiến, ông có kiểu tư duy thời chiến; thời bình, ông có kiểu tư duy thời bình. Ngay sau khi kết thúc cuộc chiến, ông nhận thức rõ bước ngoặt chuyển mình của lịch sử và nhanh chóng có cái nhìn nghệ thuật khác cho phù hợp với cuộc sống hậu chiến thông qua cái tôi công dân - nghệ sĩ tích cực, xoáy sâu vào những vấn đề bản chất của đời tư - thế sự. Từ cái ta, ông quay về với cái tôi; từ hướng ngoại, ông chuyển sang hướng nội; từ giọng cao, ông chuyển sang giọng trầm để nhìn đúng mọi trạng thái nhân thế. Hiện thực cuộc sống và hiện thực tâm trạng tương tác nhau để tạo ra những hình tượng thơ, ngôn từ thơ và tư duy thơ luôn luôn hướng đến cái Mới và cái Khác. Chất thơ Nguyễn Khoa Điềm từ thời chiến chuyển sang thời bình kết hợp được giữa cái riêng và cái chung, giữa tư duy ý và tư duy hình trên nền tảng cuộc sống và văn hoá Việt, ngôn ngữ Việt phong phú, phức hợp mà thống nhất qua hai giai đoạn thơ: trước và sau năm 1975.

Giai đoạn trước 1975, khi mới vào chiến trường, ông liền có tác phẩm nổi tiếng Đất ngoại ô với hình tượng và giọng điệu khá bất ngờ. Ông chú trọng đến con người và các quan hệ nhân sinh mà ông chứng kiến và tắm gội trong không gian đất ngoại ô Huế và thời gian đất nước có chiến tranh bằng những câu thơ tự thuật chân thành, xúc động. Từ quá khứ, ông đối chiếu với hiện tại và mơ ước đến tương lai để thấu cảm con người và quê hương, xứ sở: “Khu phố ngoại ô/ Tầm tã rụng bên dòng sông/ Những người dân nghèo về đây/ Như vỏ hến chiều chiều tấp lên các bến/ Khu phố ngoại ô/ Chân đất, đội áo nối vai/ Le te chợ Hôm, chợ Mai/ Đầu tắt mặt tối”. Trong đấu tranh gian khổ và bền bỉ, đất ngoại ô được giải phóng với khí thế và sức mạnh hào hùng: “Có bao giờ như buổi sáng Xuân nayChúng ta bay, nghìn độ lửa, ta bayĐất đuổi giặc, đất vươn dài bén gótMang Cá tan hoang, Phú Bài vỡ mặtNgoại ô mở rồi trăm lối ta băng băngTrái tim hồng lắp đầu súng chống tăng/ Ta đã lớn, ơi mẹ, em, đồng chíDưới mái xưa nhìn theo ta ứa lệSức trăm năm nay chuyển xuống lòng đường/…/ Ngoại ô bừng bừng tiếng hátNgực căng phồng trấn giữ Thuận An”. Quả là qua Đất ngoại ô, Nguyễn Khoa Điềm đã đem lại cho nhân dân cả nước, đặc biệt là nhân dân miền Nam niềm tin vào sức mạnh chính nghĩa và sự tất thắng của cuộc kháng chiến.

Tác phẩm thành công tiếp theo là trường ca Mặt đường khát vọng. Nguyễn Khoa Điềm vẫn tiếp tục mạch suy tư về Nhân dân, Đất nước bằng lối thể hiện tự nhiên, bình dị, phóng khoáng và hiện đại vốn có của mình. Xuất phát từ văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần của dân tộc Việt Nam đã hình thành trọng lịch sử, Nguyễn Khoa Điềm nói về đất nước sâu sắc mà dễ hiểu qua những so sánh gần gũi: “Đất là nơi anh đến trường/ Nước là nơi em tắm/ Đất nước là nơi ta hò hẹn/ Đất nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”. Ông giải thích đất nước đến tận cùng nguồn cội: “Đất là nơi chim về/ Nước là nơi Rồng ở/ Đất nước là nơi Lạc Long Quân và Âu Cơ đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng/ Những ai đã khuất, những ai bây giờ/ Yêu nhau và sinh con đẻ cái/ Gánh vác phần người đi trước để lại/ Dặn dò con cháu chuyện mai sau/ Hằng năm ăn đâu làm đâu/ Cũng phải biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ…”. Trường ca Mặt đường khát vọng xứng đáng là thông điệp mang chiều sâu cảm thức văn hóa và tinh thần yêu nước của tuổi trẻ và của toàn bộ nhân dân Việt Nam trong những năm chiến đấu hào hùng và anh dũng chống kẻ thù xâm lược.

Âm hưởng chung của thơ Nguyễn Khoa Điềm giai đoạn này là luôn trầm tư về Nhân dân và Đất nước với chiều sâu văn hoá và triết mỹ… Cùng với thơ của Phạm Tiến Duật, Thu Bồn, Lê Anh Xuân… và hào khí xuống đường chiến đấu trong thơ Trần Quang Long, Ngô Kha… ở Huế và các đô thị miền Nam thời kháng chiến chống Mỹ, thơ Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện cái tôi công dân nồng say và tích cực. Cảm hứng văn hoá, cảm hứng lịch sử và cảm hứng nhân dân tạo thành chất thơ kết hợp giữa hùng ca và tình ca, giữa chất liệu văn học và chất liệu văn hoá dân gian, giữa hiện thực và lãng mạn... đã tạo nên thi pháp vững chắc cho thơ Nguyễn Khoa Điềm và thi pháp ấy có ảnh hưởng đến các nhà thơ thế hệ chống Mỹ và cả sau này…

*

Ngày thống nhất đất nước năm 1975, nhân dân được đoàn tụ trong niềm vui toàn thắng reo ca, ông vui cùng dân tộc: “Đất nước ba mươi năm/ Trên vai sắt thép/ Đi suốt cuộc trường chinh/ Đi qua tuổi trẻ/ Đi qua những cuộc tiễn đưa lặng lẽkhông hoa/ Và bây giờ đất nước nở hoa/ Gầm trong hai mươi mốt phát đại bác rung trời/ Chào Chiến Thắng”. Cái giá của độc lập, tự do phải đi qua lịch sử thương đau để khẳng định niềm vui tuyệt đích, mà niềm vui lớn nhất là tình mẫu tử được đoàn viên sau bao nhiêu năm chia cắt: “Mẹ ơi, con trở lại nhà/ Sau lưng con cánh của chiều khép nhẹ/ Mẹ lại ngồi trước bếp chiều lặng lẽ/ Nấu cơm cho chúng con ăn/ Ôi những hạt gạo nổi chìm ba mươi năm/ Đời mẹ tảo tần cay đắng/ Từng nuôi chúng con làm nên chiến thắng/ Bây giờ chưa đủ chúng con no/ Nhưng căn nhà mình lộng gió tự do/ Reo tiếng trẻ những mùa làm lụng mới/...Mẹ thân yêuvới tấm lòng trọn vẹn/ Mẹ vẫn khơi bếp lửa hồng như cổ tích, ca daoVề những gì mong đợi ở mai sau” (Ngày vui)…

Khi nước nhà thống nhất, Nguyễn Khoa Điềm về lại Huế và sau đó lần lượt được giao nhiều chức vụ với những trọng trách khác nhau nên ông không có nhiều thời gian làm thơ. Mãi đến năm 1986, ông mới cho ra đời tập thơ Ngôi nhà có ngọn lửa ấm. Ở tác phẩm mới này, ông nghĩ sâu hơn và bổ sung những nhận thức của mình về Đất nước, con người và thời đại. Nhìn vào gương mặt đứa con vừa mới chào đời, ông đã nghĩ về những gì lớn lao, hệ trọng trong tương lai mà con mình phải can dự từ phút giây cất tiếng khóc chào đời để khi lớn lên, con sẽ biết lựa chọn hành vi đạo đức tốt đẹp, trở thành một công dân tích cực, toàn vẹn cho đất nước:

Con chào đời

Không có mười hai bà mụ áo quần xanh đỏ

ngồi bên

Mà hai mươi bốn khuôn dấu vuông tròn chứng nhận con trên đủ loại giấy tờ tem phiếu.

Chà, cái thằng bé khóc váng phòng

bệnh viện

Bên nôi con hai thằng bé lạc mẹ, khát sữa,

còn khóc to hơn

Không hề chi, ông Giê su bị đóng đinh, chết

đi còn chết chung với những anh khốn khổ

Còn con sống đây, hãy khóc cười chung

với cuộc đời này.

Một nhà thống kê học quê hương nói rằng sự có mặt của con đã chia vào phần 285 cân thóc đầu người

Một nhà bác học của hành tinh cắt nghĩa thêm, con đã được tính vào phần một tấn chất nổ dự chi vào đầu nhân loại.

Ấy thế mà con cứ bú và quẫy đạp

đòi phần sống!

Nhưng cha biết rằng rồi con sẽ bước vào thế kỷ 21 với tuổi mười bảy cường tráng

Bằng tiên cảm và thực chứng, Nguyễn Khoa Điềm lại suy tư về những gì còn - mất, vinh quang và đau khổ, về những cái đang tồn tại và những điều sẽ tồn tại bằng giọng thơ trầm ngâm, giàu tính triết luận và hoài niệm: “Đã mùa thu/ Đêm cha quạt cho con chút lửa/ Đặt ấm chỗ con nằm/ Trở giấc, lại ngồi lại quạt/ Những hòn than lấp lánh lim dim/ Mặt con sáng vầng trăng nhỏ/ Cha ngồi dáng người thượng cổ/ Nhớ mười năm đốt lửa Trường Sơn/ Cơn sốt, cơn đói/ Người nằm xuống, kẻ còn lưa/ Tóc cha sợi đen, sợi bạc/ Chợt nhớ lời ru mùa thu gió hát/ Cha ngồi trầm ngâm thâu đêm...”.

Ngắm những quả bầu, quả bí, ông liên tưởng đến giọt mồ hôi của mẹ và những mùa gieo hạt, rồi ông hoảng sợ tuổi già của mẹ ập đến mà những đứa con thì chưa làm được điều mong mỏi cho mẹ an lòng: “Và chúng tôi một thứ quả trên đời/ Bảy mươi tuổi mẹ mong chờ được háiTôi hoảng sợ ngày bàn tay mẹ mỏi/ Mình vẫn còn một thứ quả non xanh” (Mẹ và quả)…

Từ một con người cụ thể, ông nghĩ và liên hệ đến những gì có quan hệ lớn lao với thời gian và sự sống để củng cố lòng tin. Kiểu tư duy song song này thường lặp lại trong thơ Nguyễn Khoa Điềm. Để tìm lại trạng thái bình yên và tin yêu trong hy vọng, Nguyễn Khoa Điềm tìm đến thiên nhiên, cùng thiên nhiên giao hòa, giao cảm. Khi ấy, ông thấy mình được ân hệ từ cảnh vật quê hương:

Nhưng chiều nay có còn bò gặm cỏ

Bên dòng sông như chưa biết chiều tan

Tôi với nó lặng tim bè bạn

Mắt nó nhìn dìu dịu nước Hương Giang

Những buổi chiều, những buổi chiều

quê hương…

(Chiều Hương Giang)

*

Trở lại Huế lần thứ hai khi nghỉ hưu, Nguyễn Khoa Điềm đã hoàn thành tập thơ Cõi lặng - tập thơ được xem là sự bùng nổ thi ca lần thứ 3 của Nguyễn Khoa Điềm,  nghiêng về triết lý và chiêm nghiệm đời sống xã hội, nhân tình thế thái với tư duy hướng nội. Cái nhìn nghệ thuật giờ đây đã đổi khác. Ông quan tâm đến con người và cuộc sống thời hậu chiến bằng tư duy đối lập và tương tác rất biện chứng, chân thật: Quan sát cánh đồng buổi chiều bộn bề công việc, ông thấy sự vất vả của người nông dân một nắng hai sương và ông nghiệm ra rằng sự bất công vẫn còn trên mặt đất: “Khi mồ hôi trở nên quá rẻ/ Kẻ ranh ma trở nên quá giàu” (Cánh đồng buổi chiều). Khi nghe tin hai nhà khoa học bị tai nạn xe máy trên đường phố và bao nhiêu tệ nạn khác, ông nghĩ đến những bất an và độc ác bất ngờ có thể xảy ra, làm cho con người thành bi kịch của chính cái ác: “Hung bạo trên mạng, trên sàn diễn, trong lớp học/ Hung bạo giữa bàn nhậu, cửa sau công sở, hung bạo đường phố/ Hung bạo văn chương, tố giác nặc danh” (Lạng lách thời thượng và sành điệu).

Tuổi càng cao, ông càng nghĩ đến nhiều sự việc bất ổn và tại vạ bất ngờ có thể xảy ra đối với bất cứ ai: “Bánh xe đạp không tròn nữa/ Chỉ một hòn đá vô tình cũng đủ ngã lăn chiêng và các cô gái đều lẫn vào mây trắng/ Như là thần tiên, như cánh diều vàng” (Bất ổn). Cũng vẫn tư duy đối lập, nhà thơ ngạc nhiên trước sự mỏng manh mà vững chãi của cây cỏ, thiên nhiên mà cây vú sữa trước sân nhà ông là một bằng chứng của sức chịu đựng và sự lạc quan của nó: “Đêm qua mưa bão đen vườn cũ/ Sáng dậy trên cao lá nói cười” (Cây vú sữa trước nhà). Ông cảm nhận được trong từng hồng cầu của mình về sự mạnh mẽ và thanh sạch, ung dung của cỏ: “chậm rãi/ không nghe tiếng người, tiếng xe cộ lại qua/ Bụi bặm một ngày kiếm sống/ Nó nghe vị ngọt của từng cọng cỏ” (Cỏ ngọt). Ông học được ở thiên nhiên sự thanh cao, dịu dàng và nhân hậu. Nhìn những bông hoa nở về đêm, ông hiểu được: “Một đời mơ mộng chẳng nguôi quên/ Những khi ta ngủ thì hoa thức/ Hoa nhắn giùm ta bí ẩn em” (Trong đêm). Làm bạn và học hỏi thiên nhiên, ông đúc rút thành những kinh nghiệm quan hệ bản chất: “Đôi khi đá dạy ta mềm mỏng/ Sự tàn nhẫn nhắc ta điều lành/ Nỗi buồn đánh thức hy vọng”. Và: “Giữa thế giới không nhiều may mắn/ Ta học cách vừa lòng với mình/ Chia sẻ sự bình tâm của cỏ” (Hy vọng). Những triết lý, chiêm nghiệm này không chỉ cần thiết cho bản thân tác giả mà còn là những bài học kinh nghiệm quan hệ sống hết sức quý giá cho tất cả mọi người trong ứng xử và tồn tại.

Lấy mình làm người đối chứng, Nguyễn Khoa Điềm tự nhìn vào nội tâm và bản thể để lựa chọn cách sống: “Cõi lặng/ Tôi vượt qua ghềnh thác/ Đến những miền trong xanh”, nơi đó “không tiếng động nào khác” ngoài “tiếng đập trái tim anh”. Đó là lúc ông hạnh phúc tự tình: “người ơi, tôi yêu người tha thiết/ tôi sống với người, chết vì người” (Cõi lặng). Một tuyên ngôn thanh thản, đứt khoát, làm thành giọng điệu mới cho thơ ông giai đoạn hậu chiến:

Bây giờ là lúc có thể chia tay điện thoại để bàn, cạc-vi-dit, nắm đấm mi-crô

Tự do lên mạng với đời sống, ăn ngủ với

bụi đường

Một mình một ba lô và xe đạp

Bây giờ gió gọi anh đi

Mặt trời đánh nhịp về tám hướng

Từ giã cà vạt, giày đen, lời trịnh trọng

Anh là một với cánh đồng, cánh hẩu với

quán cóc, ăn chịu với cỏ

Hò hát một mình, đọc những gì yêu thích,

ghi chép những gì cần ghi chép

Thế giới thật rộng, những ngả đường độ lượng

Cho anh làm mới cuộc đời mình…

(Bây giờ là lúc)

Cũng trong cõi lặng, Nguyễn Khoa Điềm trầm tĩnh nhận ra: “Dòng nước sẽ rửa sạch sự đớn hèn/ Dẫu có khi đã nhường lời cho bọn khoác lác”. Và ông quyết tâm làm mới mình bằng tất cả những gì có thể của trạng thái “tự do thi sĩ” một cách thanh thản: “Hãy lộn ngược da anh/ và ghi lên đó mật khẩu: - Không lùi bước!” (Không lùi bước).

*

Bên cạnh cảm quan về nhân dân và đất nước, Nguyễn Khoa Điềm còn dành cho tình yêu những cung bậc trữ tình sâu lắng. Thơ tình yêu của Nguyễn Khoa Điềm có cách thể hiện riêng, tùy vào từng trạng thái tình cảm và các quan hệ riêng tư cụ thể. Trong thời chiến, Nguyễn Khoa Điềm thường gắn liền tình yêu trong những quan hệ với nhiệm vụ chung của dân tộc: “Em em ơi! Đất nước là máu xương của mình/ Phải biết gắn bó và san sẻ/ Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở/ Làm nên Đất nước muôn đời” (Đất nước).

Thơ tình yêu của Nguyễn Khoa Điềm trong thời kì kháng chiến luôn hoà quyện một cách nhuần nhuyễn vào tình yêu đất nước, nhưng không phải vì thế mà thiếu sự mãnh liệt vốn có của nhân loại muôn thuở. Bài thơ Khoảng trời yêu dấu (1970) được sáng tác trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ ác liệt, vậy mà vẫn thấy những khoảnh khắc lãng mạn, dịu êm và nồng ấm nhưng không kém phần lý trí tỉnh táo của người con trai trước những đối lập giữa hiện thực và lãng mạn, giữa tình yêu và nghĩa vụ: “Phía em, phía của quê nhà/ Trắng là tóc mẹ, xanh là áo em/ Anh đi kháng chiến trăm miền/ Hướng dương thương nhớ vẫn nghiêng phía này”. Bởi vì, hơn ai hết, ông hiểu: “Đời đẹp thế, đời chiều ta đến thế/ Anh yêu đời, càng tha thiết yêu em/ Còn có gì tách được nỗi chung - riêng” (Cảm ơn tình yêu và cuộc sống).

Thơ tình Nguyễn Khoa Điềm trong thời bình có những thay đổi và bổ sung những cung bậc mới xuất phát từ sự thay đổi hiện thực và tình cảm. Ông không ngừng yêu thương và mơ mộng theo tiếng nói riêng của trái tim đa cảm, lãng mạn và trí tuệ, nhưng đã chen vào đó giai điệu buồn, có lúc day dứt vì những tổn thương, rạn vỡ và bất ổn nào đó… Càng về sau, ông càng thao thức và chiêm cảm về tình yêu nhằm rút ra những bài học và cạnh khía triết lý để làm giàu cho kinh nghiệm yêu và hiểu được lý lẽ của trái tim đa cảm. Muốn vậy, ông phải tựa vào thiên nhiên và tựa vào chính tâm hồn mình để tin yêu và mơ mộng: “Bởi vì em mặc áo vàng/ Tôi muốn em hãy đọc bài thơ Nga ấyĐã rung lên như lửa cháyMột mùa thu chết tận xa xôi/ Cho tôi sống bồi hồi/ Trên chân trời rung cảm khácVà chuyến xe/ Chật chội, gian nan/ Vẫn là con gió thổi tôi qua bờ bãi/ Với nắng tinh khôi, óng ảtươi vàng” (Đi bên mùa thu).

Khác với tình yêu thời chiến đấu ở những cánh rừng đầy lá bay, tình yêu trong Ngôi nhà có ngọn lửa ấm và Cõi lặng được cụ thể hóa, nhưng gia tăng tính triết lý để nội hàm ý nghĩa được hiện lên, đánh thức trong chính ông những rung cảm lặng thầm. Có những lúc ông để lý trí mách bảo khi liên hệ với cảnh vật để thấy tình yêu là cao sang và kỳ diệu trong tương tác với thiên nhiên: “Anh trôi điKhông bắt đầu không kết thúc, không bờ bếnAnh mang tự do của nước đến với cuộc đờiNhư sông từ hữu hạn đến vô hạnĐể mãi mãi có mặtĐể sốngBên ngườiPhải chăng Sông Hương?” (Sông Hương). Có lúc, ông trầm tư trước thiên nhiên để nghĩ về tình yêu: “Ta ngồi như cội trúcGội mưa thu bốn bềNghĩ mình không lỗi hẹnVới người đang xa quêRồi ông nghiệm suy về cái có thể, cái không thể của tạo hóa:

Đã lâu rồi anh không về Huế

Hẹn vào thu rồi lỡ cả mùa đông

Anh mãi miết trên đường hoạn lộ

Ngảnh về quê hư ảo một vầng trăng…

(Viết cuối năm)

Cho nên, mong ước được yêu, được hoà hợp là trạng thái thường trực trong tâm cảm Nguyễn Khoa Điềm để xoa dịu nỗi buồn và sự lãng quên trong xa cách: “Chỉ mong em trở lạiKịp hái chùm tóc tiênCắm lên bình lam ngọcMừng một ngày lãng quên” (Mưa thu). Nhờ vậy, ông kịp hiểu và kịp nhận ra: “Em thanh Xuân/ Anh quá đỗi/ Ngại ngùng/ Sương với gióĐượm buồnTừng tấc cỏĐà lạtAnh có gìĐể nhớSao âm thầmTới muôn xưa”. Đẹp và buồn và âm thầm hy vọng đến xa xanh là vậy!

Cùng các đề tài khác, đề tài tình yêu và triết lý về tình yêu trong thơ Nguyễn Khoa Điềm tạo thành giá trị tổng thể của thế giới nghệ thuật thơ và thi pháp thơ ông, giúp người đọc nghĩ về con người văn hoá, con người công dân tích cực để càng yêu quí con người thi sĩ đích thực trong ông một cách trọn vẹn.

Hồ Thế Hà

Nguồn Văn nghệ số 39/2023


Có thể bạn quan tâm