May 2, 2024, 9:56 pm

Ba tôi - Lê Khôi

 

(Nhân kỷ niêm 76 năm ngày Thương binh – Liệt sỹ

27/07/1947 – 27/07/2023)

                                                                                                                           

Trên chuyến đi công tác Lạng Sơn, nhìn ra ngoài từ cửa kính ô tô, cơn mưa rào mùa hạ xối xả như cuốn bay mọi thứ, duy nhất chỉ có những cây hoa đào ở hai ven đường, trên những triền núi, con dốc, tuy chưa phải vào mùa hoa nở nhưng chúng vẫn mọc sừng sững, và đẹp một cách nao lòng – một vẻ đẹp cổ thụ, tự nhiên, pha chút hoang sơ mà không giống đào nào có được.

Có lẽ bởi vậy mà nó được coi là biểu trưng cho sức sống mạnh mẽ đến phi thường của nơi địa đầu Tổ Quốc. Bất giác, tôi lại nhớ đến ba tôi và những cây đào xứ Lạng mà tôi và các đồng đội của ba đã đem về trồng bên mộ ông vào mùa xuân năm 2023, tại công viên nghĩa trang Vĩnh Hằng, Ba Vì, Hà Nội. Chắc giờ đây, giống như những cây hoa đào này, chúng cũng đã vươn cành cao lớn, mọc sừng sững hiên ngang y như ba tôi lúc sinh thời, luôn sống ngẩng cao đầu, dâng trọn mùa xuân, tuổi trẻ cho Tổ Quốc.

Tôi vẫn còn nhớ như in ngày ba tôi ra đi năm 2003 do vết thương thời chiến tái phát. Đó là ngày tôi phải xa ba mãi mãi nhưng cũng là ngày mà tôi được gần ông theo một cách thật đặc biệt. Ngày đó, rất đông các đồng đội của ba đã đến viếng và đưa tiễn ông về nơi an nghỉ cuối cùng. Mỗi người đến đều mang theo một câu chuyện riêng về ba, những câu chuyện thời chiến về tình đồng đội, đồng chí, về tinh thần chiến đấu…mà chị em tôi chưa bao giờ hình dung ra. Được nghe những câu chuyện kể về ba, nhìn những hàng nước mắt lăn dài trên khuôn mặt nhăn nheo của những người đồng đội già dành cho ông, tôi mới hiểu, ba tôi lúc sinh thời đã sống một cuộc đời vô cùng ý nghĩa.

Ba tôi là cựu sinh viên tại chức Đại học Bách Khoa Hà Nội, ông có khả năng nghe nói tiếng Anh và tiếng Nga khá tốt do ông tự học và tích lũy từ trên báo đài. Suốt quãng đời hoạt động Cách Mạng của mình, ba tôi đã được Đảng và Nhà nước tin tưởng giao giữ nhiều cương vị quan trọng khác nhau trong quân đội.

Năm 1949, nghe theo tiếng gọi của Đảng, ba tôi nhập ngũ vào trung đoàn Thủ đô (E 102 F308) sư đoàn Quân Tiên Phong (F308). Đó là dấu mốc khởi đầu của một hành trình dài  40 năm đầy hy sinh và tận tụy dành cho Tổ quốc.

Năm 1954, ba tôi tham gia đánh chiến dịch Điện Biên Phủ, được Đảng trao thưởng huân chương chiến công. Sau đó ông bị thương khi tham gia chỉ huy chiến dịch Mậu thân năm 1968. Năm 1972, ông tiếp tục được giao nhiệm vụ làm trung đoàn trưởng E102 F308 ( Trung đoàn Thủ đô – Sư đoàn quân Tiên Phong) đánh chiến dịch Quảng Trị và đường Chín Nam Lào. Tại thời điểm này, ông nhận được tin bố ruột ( ông nội tôi ) bị bom Mỹ giết chết, vẫn nén đau thương ở lại sát cánh cùng đồng đội tiếp tục chiến đấu. Sau đó, ông đã bị thương rất nặng, nhưng xin tụt hạng để được ở lại tiếp tục chiến đấu. Trong trận đánh này, ông được phong danh hiệu Dũng sỹ diệt Mỹ và được thưởng nhiều huân huy chương chiến công.

Năm 1977, ông trở thành Phó sư đoàn trưởng - Tham mưu trưởng sư đoàn F308, sau đó được điều về làm Hiệu trưởng trường Hậu cần tại quân đoàn 1 (binh đoàn Quyết Thắng). Với cương vị mới này, ông đã thể hiện được tài năng và năng lực lãnh đạo của mình.

Năm 1978, biên giới trở nên căng thẳng giữa ta và Trung Quốc, một lần nữa ông lại xung phong lên Cao Bằng và được bổ nhiệm làm Sư đoàn trưởng F322, quân đoàn 26 quân khu 1. Sau đó, ông tiếp tục làm sư đoàn trưởng F346 quân đoàn 26 quân khu 1. Từng đơn vị dưới quyền ông đều gắn bó, đồng lòng, tạo nên một khối đoàn kết vững mạnh, cùng nhau chặn đứng và đánh đuổi quân Trung Quốc ra khỏi bờ cõi đất nước.

Năm 1980, mặt trận Lạng Sơn nơi tuyến đầu Tổ quốc, đây là cửa ngõ rất quan trọng của nước ta đang xảy ra căng thẳng thì trên lại điều ông về làm sư đoàn trưởng F337 quân đoàn 14.

Năm 1981, quân xâm lược Trung Quốc đánh chiếm điểm cao bình độ 400 nhằm khống chế thị xã Lạng Sơn. Ông đã chỉ huy sư đoàn cùng các đơn vị phối hợp ( E198 đặc công – E166 pháo binh – D52 trinh sát và một số đơn vị của quân khu ) đánh tan ý đồ lấn chiếm của Trung Quốc. Lúc này bà nội tôi ở nhà qua đời, nhận được tin báo bố tôi gục đầu khóc nhưng trên cương vị tư lệnh sư đoàn ông không thể bỏ anh em đồng đội về chịu tang mẹ được. Biến đau thương thành hành động, ông đã cùng các cán bộ chiến sỹ sư đoàn F337 chiến đấu hết mình, giành lại sự tự do cho vùng đất xứ Lạng. Sư đoàn F337 cũng vinh dự được phong tặng danh hiệu Cánh cửa thép Lạng Sơn. Rồi chiến sự cứ xảy ra liên tục, ông thức cả chục ngày không ngủ nên bị xuất huyết dạ dày ngất đi ngay trong hầm chỉ huy. Bộ Quốc phòng đã điều máy bay trực thăng và bác sỹ bệnh viện 108 lên cấp cứu đưa ông về Hà Nội điều trị. Kết quả ba tôi phải cắt 3/4 dạ dày.

Năm 1982, ông được điều về làm sư đoàn trưởng F431 quân khu 1. Ngày đó, nhân dân ta còn đang bị đói kém, dù được tiêu chuẩn ăn của cán bộ nhưng ông không ăn mà ăn cùng anh em chiến sỹ, phần còn lại ông thanh toán mang cho các gia đình nghèo khổ sống gần đó.

Năm 1985, ông trở thành cán bộ Tham mưu tại Sở chỉ huy mặt trận cánh đông (sở chỉ huy bổ trợ Quân khu 1). Dù ở vị trí nào, ông cũng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, được thưởng nhiều huân chương và giấy khen các loại.

Năm 1989, sau nhiều năm phụng sự Tổ quốc, nhân dân, ông được nghỉ hưu theo chế độ tại Hà Nội. Ông là thương binh hạng 1/4, được hưởng chính sách nhà ở dành cho những người có công với đất nước nhưng ông nhất quyết từ chối không nhận nhà và luôn dặn mẹ con tôi rằng “Nhiều người còn vất vả hơn mình mà họ chưa có nhà ở, nên nhường cho họ”. Đó là minh chứng rõ ràng nhất cho một hy sinh vô điều kiện và không mong báo đáp mà ông dành cho Tổ Quốc.

Sau khi nghỉ hưu, ba tôi mới có thời gian để nghỉ ngơi dưỡng sức, tận hưởng cuộc sống bình dị và dành thời gian cho gia đình và những người thân yêu, đặc biệt là mẹ tôi. Dường như ba mẹ tôi không rời nhau nửa bước, đi đâu cũng luôn đồng hành cùng nhau. Sau khi mẹ tôi mất, ngày nào ba cũng ngồi trước bàn thờ mẹ, vừa nói chuyện với mẹ vừa rơm rớm nước mắt. Chứng kiến những cảnh đó, tôi xúc động và trân quý vô cùng. Nhưng tôi cũng hiểu vì sao ba tôi lại dành nhiều tình cảm cho mẹ tôi đến vậy, vì mẹ là người đã hy sinh quá nhiều cho ba, thay ba gánh vác mọi việc lớn nhỏ trong gia đình và chăm sóc con cái để ba yên tâm đi chiến đấu.

Càng sống và trải đời nhiều, tôi lại càng kính nể sự hy sinh của ông vì Tổ Quốc. Đó là một sự hy sinh rất đáng giá và vẻ vang. Tôi tin chắc rằng, nếu được lựa chọn lại, ông vẫn sẽ lựa chọn đi theo tiếng gọi của Tổ Quốc. Và tôi nếu được lựa chọn lại, tôi vẫn sẽ lựa chọn được làm con của ông - một người chiến sỹ bộ đội Cụ Hồ đầy tự hào. Tôi thầm cảm ơn ba và những người chiến sĩ khác – những người chồng, người bố, người lính anh hùng đã cống hiến và dành tình yêu vô điều kiện cho đất nước để chúng ta có cuộc sống hòa bình và no ấm như ngày nay.

Mưa bắt đầu thưa hạt, tôi trở lại với chuyến công tác của mình mà lòng nhớ ba vô hạn. Sau chuyến công tác này, khi trở về Hà Nội, nhất định tôi sẽ đi thăm ba, thăm những cây đào xứ Lạng bên mộ ông. Tôi sẽ kể cho ông nghe về những điều mà tôi đã chiêm nghiệm được từ cuộc đời của ông. Đó là cuộc đời đầy ý nghĩa và tinh thần quên mình vì Tổ Quốc.

Hương Liên


Có thể bạn quan tâm