April 29, 2024, 9:15 am

Văn chương và số phận

Nhà văn Lê Lựu sinh năm 1938 tại thôn Mãn Hòa, xã Tân Châu, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên. Nhiều người đã thốt lên khi đặt chân đến Hưng Yên, rằng “đây là mảnh đất văn hiến”. Có lẽ linh khí của trời đất đã phần nào góp phần giúp cho Lê Lựu sau này trở thành một nhà văn dành hết đam mê, nhiệt huyết, dũng cảm, dấn thân hết sức trách nhiệm với văn chương, với xã hội, với đất nước. Để rồi đến khi ông giã biệt chúng ta, thì Văn chương và số phận của ông dường như vẫn chưa khép lại...

Trong một cuộc trả lời phỏng vấn về tiểu thuyết Thời xa vắng, Lê Lựu từng thốt lên: “Cái đầu tiên mà mọi người nhận ra là mình không nói dối nữa! Mình nói thật với cuộc đời về cuộc đời đó rồi!” mới thấy Lê Lựu khao khát sự thật, muốn nói thật đến mức nào. Và đương nhiên, Văn chương và số phận của nhà văn Lê Lựu cũng coi như một hành trình đi tìm sự thật.

Lê Lựu có cuộc đời nổi chìm, cơ cực, cương cường như văn chương của ông. Sự rèn luyện về văn chất và bản chất người của Lê Lựu luôn không ngưng nghỉ. Hàng chục tiểu thuyết, tập truyện ngắn từ Người cầm súng (1970) đến Gã dở hơi (2012) với gần nửa thế kỷ sống, cầm súng và cầm bút, sử dụng toàn bộ sức lực, trí tuệ, sự đam mê, niềm tin, trái tim và hành động của mình, thân phận cuộc đời mình đến hơi thở cuối cùng cho văn chương chữ nghĩa và đạo nghĩa đã cho thấy một Lê Lựu luôn dấn thân và cống hiến…

Ở bất cứ lúc nào, Lê Lựu đều là người tỉnh táo. Có tỉnh táo mới chạm được vào sự thật. Ở khoảnh khắc viết Thời xa vắng, như ông nhận định: “Năm 1984 nằm trong thời kỳ những năm rất chặt chẽ trên mọi phương diện, cả về kinh tế, văn hóa, chính trị. Đó là những năm chặt chẽ, bảo thủ, cố thủ rất ghê gớm!”. Một nhà văn đã nhìn thẳng sự thật như vậy còn cảm nhận rằng: “Chính vì vậy mà mình liều viết ra, rồi in được thì in, mà không thì thôi cũng đành”.

Thời xa vắng được viết ra. Tiếp đó là Chuyện làng Cuội (1990); Sóng ở đáy sông (1994); Hai nhà (1999). Bốn cuốn tiểu thuyết chủ chốt nhất của Lê Lựu được viết ra khi chiếc lò xo đã được nén căng tới đáy. Lê Lựu đã nói ra được sự thật bằng văn chương và số phận không chỉ của riêng ông mà của nhân dân, thời đại ông trong một khoảng thời gian, không gian lịch sử. Lê Lựu từng bảo: “Trong các nhà văn của chúng ta, văn sĩ thì nhiều, nhưng kẻ sĩ thì không nhiều...”. Đó chính là dũng khí của Lê Lựu. Đến nói ra sự thật còn không dám làm sao tiệm cận văn chương? Ở những nhận định như thế, đã cho thấy một Lê Lựu không chỉ cầm bút viết ra sự thật mà còn rất trân trọng người khác cầm bút viết ra sự thật.

Lê Lựu đã đớn đau và dằn vặt, hy sinh rất nhiều, chịu mất đi rất nhiều bao gồm cả hạnh phúc riêng tư chỉ vì cái độc lập của một nhà văn. Ông không độc lập cho riêng mình mà chính là vì số phận, thân phận của nhân dân và đất nước mà ông quyết làm một ngòi bút độc lập, nói ra những điều cần nói. Trong Một thời lầm lỗi (1988); Trở lại nước Mỹ (1989) thì tiếng nói của ông đã trở thành bản lề để mở ra những khung trời lớn mà ông ý thức rất sâu, thậm chí đã phải sử dụng tới cả sinh mạng chính trị của mình để nói ra.

Đổi mới là một tất yếu lịch sử. Với văn chương, Lê Lựu là một trong những dấu mốc quan trọng nhất của Đổi mới. Đổi mới là phải nhìn thẳng vào sự thật, nói ra sự thật. Tất cả sự thực của ông có giới hạn không vượt qua “làn ranh đỏ” như một số người đã cùng đi trên một cỗ xe rồi lại quay xe. Chúng ta đã có những lúc như ở vào bước đường cùng. Đến mức người đứng đầu của Đảng là Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh khi ấy đã phải thốt lên: “Hãy tự cứu mình trước khi trời cứu”. Nói như thế là đau đớn lắm. Người đứng đầu đã phải nói đến câu đó, như một giới hạn cuối cùng với nhân dân mình là đau đớn lắm… Ở bước ngoặt lịch sử đó, điều gì đã cho nhà văn Lê Lựu với hàng loạt tiểu thuyết và bút ký trực diện với đời sống xã hội giáo điều, quan liêu, bí bách, cứng nhắc đến cùng cực? Ông từng đau xót nói: “Một xã hội chỉ dạy cho nhau ăn gian, nói dối tất sẽ trở thành một xã hội lưu manh... Tất cả sự nhăng nhố ấy, của cái thời ấy, theo mình, nguy hiểm nhất là nó sẽ di hại cho các thế hệ sau”.

Một nhà văn đã phải trả lời thẳng thừng cách đó, tức là đã không còn lựa chọn khác. Còn cay đắng nào hơn, tủi nhục nào hơn. Biết chắc những tha hóa sẽ diễn ra mà không cách gì ngăn chặn được có khác gì những mũi khoan khoan từng mũi vào trái tim ông, để lại những lỗ đen bầm sâu hoắm...

Văn chương và số phận của Lê Lựu luôn là một hành trình mở. Chúng ta có thể thống kê các nhân vật, khái quát và bình phẩm nội dung và nghệ thuật, từ chủ đề tư tưởng tới cung cách hành văn, từ câu cú ngắn dài tới những thông điệp mà văn chương của ông đã trình ra trong đời sống bằng các tiểu luận, luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ. Đã có nhiều bộ phim điện ảnh, truyền hình rất thành công, tạo dư luận từ các truyện ngắn, tiểu thuyết của Lê Lựu. Bản thân ông cũng rất hăng say với điều này. Các đạo diễn, biên kịch, quay phim, diễn viên rất mê Lê Lựu vì ông rất thật. Thậm chí là lưu manh, côn đồ, giang hồ cộm cán từng được ông chia sẻ và giúp đỡ theo kiểu chẳng giống ai. Nhưng đó là sự thật. Người ta đang đi móc túi mưu sinh, ông lại đưa vào sách, lên phim, họ không hành nghề được, đến nhờ ông xin cho việc làm cũng là lẽ thường tình. Trách anh em ngoài xã hội thế nào được? Càng không trách được nhà văn. Chẳng nhẽ thôi không đưa ra sự thật nữa, cứ để mặc kệ sự giả dối hoành hành, cứ mặc kệ đời sống nhân dân ra sao cũng được? Than ôi! Đời nào Lê Lựu đi theo con đường ấy!

Nhà văn Lê Lựu chưa bao giờ yên hàn thanh thản trong đời sống, càng chưa bao giờ tĩnh lặng với văn chương. Văn chương của ông từ cuộc sống mà ra, và lập tức chúng ùa vào cuộc sống. Phải tài năng lắm và phải biết giấu tài lắm mới viết được những trang văn như thế... Sự thật khi đeo chiếc “vòng kim cô” ở chỗ lầm than hành khất, đánh giày, bán báo… là những sự thật nhiều khi khiến chúng ta như không tin ở mắt mình, tai mình, nhất là ở trái tim mình. Nhưng sự thật, giống như văn chương và số phận, có nghiệt ngã đến thế nào chúng ta cũng phải đối diện và đồng hành với nó. Như ông đã từng nói: “Cái quan trọng là khi viết mà người ta đọc thấy đúng mới là văn chương. Viết hay không quan trọng, mà người ta bảo đúng mới là quan trọng! Nói “đúng” ở đây là đúng với tâm trạng và số phận của mỗi người”. Nghe cứ ngang ngang, nhưng ngẫm ra lại vô cùng đúng vậy.

Lê Lựu là người hết sức có trách nhiệm với văn chương và số phận của mỗi con người, của nhân dân và dân tộc. Ngay trong đà Đổi mới, ông đã có những cột mốc Thời xa vắng; Chuyện làng Cuội; Sóng ở đáy sông; Hai nhà... cùng những cột mốc khác như Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh; Bến không chồng của Dương Hướng; Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường; Chuyện ngõ nghèo của Nguyễn Xuân Khánh... Và chính Lê Lựu chứ không phải ai khác đã nói thẳng: “Không khí Đổi mới của giai đoạn sau không bằng giai đoạn trước. Cứ thế này, văn học sẽ gặp hai điều trở ngại. Thứ nhất là quản lý không ăn nhập với tâm trạng, với nguyện vọng của xu thế, cái không khí của xã hội và rồi của chính các nhà văn mình. Thứ hai là làm phức tạp lên những chuyện đơn giản, những điều đơn giản…”. Chỉ có Lê Lựu, bằng ba câu nói có vẻ nôm na mà đã diễn tả đúng đến tận cùng bản chất cả một quãng đường không hề ngắn ngủi.

Lê Lựu luôn là như thế.

Nhà văn Lê Lựu, văn chương và số phận là một phần hay là toàn bộ cuộc đời ông? Liệu có còn những góc khuất nào? Các tác phẩm mà ông đã viết ra đã được in ra trọn vẹn? Thực ra điều này cũng không nhất thiết phải trả lời rành rẽ bằng con số. Mở đầu và kết thúc của nhà văn, nhất là một nhà văn như Lê Lựu, không cần thiết phải trả lời hết những câu hỏi, như đời sống nhân dân cần lao ngoài kia, ai sẽ là người trả lời những câu hỏi chính đáng của họ?... Văn chương cũng như số phận của nhà văn Lê Lựu có nhiều khúc quanh, bước ngoặt mà tập sách này đã chạm đến, đã chia sẻ và đồng hành, đớn đau và kiêu hãnh về ông, cho ông, một nhà văn của nhân dân và Tổ quốc. Hiếm có một ai yêu nhân dân, nhất là nông dân như Lê Lựu. Càng hiếm có người nào yêu Tổ quốc như ông, nguyện làm con chó, con gà vượt qua phên giậu cương vực đất đai để các vị chủ nhân có cớ làm hòa sau bao nhiêu lầm lỗi. Đều là Lê Lựu vậy! Một Lê Lựu về đình làng, chùa, miếu thì như người thủ từ nhang đèn tận tụy sớm hôm. Một Lê Lựu Tổng Giám đốc Trung tâm Văn hóa Doanh nhân đường hoàng, đĩnh đạc, sâu sắc trước các chính khách đến thượng tầng tứ trụ. Một Lê Lựu lo miếng cơm ăn, nước uống cho cậu lái xe, người bảo vệ, đứa bé đánh giày, bán báo vỉa hè... thì vẫn là Lê Lựu ấy, người nông dân bờ bãi sông Hồng đã trót mang tai ách kiếp văn chương cứ thế một mạch xông ra với đời, với dân, với nước… Có thể khẳng định, nhà văn Lê Lựu là một tác giả quan trọng của nền văn học cách mạng, nhất là sau Đổi mới 1986. Cả cuộc đời cầm súng và cầm bút của ông đã để lại nhiều tác phẩm có giá trị. Trước, và nhất là khi ông mất, đã có hàng chục, thậm chí là hàng trăm bài viết với sự chân thành, sâu sắc, nhân văn về nhân cách và tài năng Lê Lựu. Đó cũng là sự tri ân mà mọi người dành tặng cho ông.

Nhà văn Lê Lựu, văn chương và số phận tới tay bạn đọc là trình bày ra một sự nghiệp văn chương và con người Lê Lựu, như chính ông, từ chính ông.

Nguyễn Xuân Tuấn

Nguồn Văn nghệ số 31/2023


Có thể bạn quan tâm