May 5, 2024, 8:47 am

Tình riêng bỏ chợ, tình người đa đoan

Nổi danh đa tài, từ thơ, điện ảnh, hội họa đến văn xuôi, lĩnh vực nào Đoàn Lê cũng có thành tựu, nhất là trong sáng tác văn xuôi. Chị còn được công chúng biết nhiều qua bài thơ Cho một ngày sinh của người em là Đoàn Thị Tảo viết tặng: “Ngày chị sinh trời cho làm thơ…/ Vấn vương với sợi tơ trời/ Tình riêng bỏ chợ, tình người đa đoan”.  

Nhà văn Đoàn Lê (1943-2017)

“CÔ KIỀU” CỦA ĐIỆN ẢNH KHÓA I

Đoàn Lê sinh ngày 15/4/1943 tại Hải Phòng, là con một cụ đồ Nho có nghề thuốc gia truyền. Cụ đồ muốn hướng cho con gái nối nghề tổ. Nhưng từ tuổi hoa niên Đoàn Lê đã là một hoa khôi của thành phố Cảng, lại giàu mộng ước, yêu văn chương, nghệ thuật. Do vậy, nhiều thanh niên đất Cảng mê Đoàn Lê. Và rồi, cũng có một mối tình sét đánh. Nó đến nhanh như sấm sét, và cũng biến nhanh như sấm sét, để lại trong Đoàn Lê một nỗi buồn mênh mông, may sao, “trời cho làm thơ”, và chị lấy thơ để lấp bớt nỗi buồn đó. Đang là nữ sinh lớp chín, Đoàn Lê đã có thơ đăng trên các báo chí.

Biết không theo nghề thuốc là trái ý cha mẹ, nhưng hồn đầy mơ mộng và chí muốn bay nhảy, năm 17 tuổi, Đoàn Lê trốn lên Hà Nội thi vào trường Điện ảnh, đã trúng tuyển khóa I (1959 – 1962) cùng với Lâm Tới, Trà Giang, Thụy Vân… Là sinh viên trường Điện ảnh, nhưng năm 18 tuổi chị lại nổi tiếng thiên hạ với bài thơ Bói hoa đăng trên báo Văn nghệ, được nhiều người chép chuyền tay nhau. Đây là thời thơ của Heinrich Haine rất được yêu chuộng ở nước ta, vậy nên một số người chép Bói hoa vào sổ tay đã ghi tên tác giả là…Haine: “Ngày xưa em ngây thơ/ Ngồi bói hoa hồng nở/ Đoán tình yêu sau này/ Vẹn tròn hay dang dở…” Sau bài thơ Bói hoa, Đoàn Lê viết văn xuôi, và thật bất ngờ, mấy truyện ngắn đầu tay của chị Đôi mắt hoa Nhài, Trương Viên, Cây xoan được đăng trên hai tờ báo danh tiếng là Văn nghệ và Đại đoàn kết. Những năm cuối thế kỷ XX, chúng tôi từng được nghe Đạo diễn, nghệ sĩ Nhân dân Hải Ninh và một số nghệ sĩ thế hệ đầu của Điện ảnh Việt Nam nhắc lại chuyện xưa rằng, Đoàn Lê da trắng bóc, thanh mảnh, bạn bè gọi là “cô Kiều của Điện ảnh khóa I”, bởi giỏi cả văn, thơ và điện ảnh. Chị còn yêu thích Mỹ thuật chả kém gì yêu văn chương, và đã theo học thêm về hội họa với họa sĩ Dương Bích Liên và họa sĩ Bùi Xuân Phái…

“Cô Kiều của khóa I”, hóa ra thật sự long đong nhất trong các nữ diễn viên Điện ảnh đương thời. Tốt nghiệp, Đoàn Lê về làm việc tại Xưởng phim truyện Việt Nam, nhưng thường chỉ được phân vào các vai phụ. Sau này, có ai khen chị là lớp diễn viên đầu của Điện ảnh Việt Nam, chị thường cười và nói như diễu mình: “Toàn đóng vai chạy cờ, lúc xem phim chả thấy mình đâu”. Ấy là Đoàn Lê lờ đi việc chị đã đóng vai chính duy nhất trong bộ phim truyện Quyển vở sang trang. Nhiều khán giả vẫn còn giữ được ấn tượng rất đẹp về cô giáo Hồng Vân mà người trong nghề thường hay gọi là “cô giáo Đoàn Lê” nền nã, dịu dàng thời ấy. 

Chiến tranh phá hoại của không lực Mỹ đã lan ra cả miền Bắc, năm 1967, Đoàn Lê lấy chồng, rồi sinh con. Chồng chị, anh Tự Huy, một nghệ sĩ Đoàn kịch Điện ảnh, sau lại học thêm và trở thành đạo diễn, chí để cả vào nghiệp. Việc nuôi con, Đoàn Lê gánh cả. Chị về sống ở làng Kim Lủ, quê chồng, từ đó lên Xưởng phim mười mấy cây số, lại trong thời chiến, đi làm cũng thật cực nhọc. “Cô Kiều của Điện ảnh khóa I” mảnh mai giỏi cả văn, thơ, hội họa đã gồng mình lên để sống suốt mười năm trời như vậy. Cuối năm 1972, chúng tôi cùng nhà thơ Thanh Tùng và nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ, từ nhà sáng tác Quảng Bá, tìm đế thăm tác giả bài Bói hoa. Hôm đó Đoàn Lê rất vui. Mỹ Dạ thì ngây ra ngắm chị nói chuyện và chị hút thuốc nữa… Trên đường về Quảng Bá, Mỹ Dạ nhiều lần thốt lên: “Chị Lê tài mà đẹp quá chừng. Đẹp đến mức Dạ là con gái cũng mê luôn!”. Mỹ Dạ và cả chúng tôi chưa biết, khi đó, người phụ nữ tài sắc ấy đang chịu thật nhiều vất vả, khó khăn trong đời sống…

Hồi đó, Xưởng phim truyện Việt Nam dựng phim nào Đoàn Lê cũng phải đi cùng đoàn làm phim, không được phân vai thì làm đủ việc vặt. Với tình yêu nghệ thuật, Đoàn Lê chịu được hết, chỉ mong được đóng góp cho điện ảnh. Với tuổi trẻ nhiều mộng ước, chị đã mong sao, khi xem phim thấy có mình trong đó. Nhưng rồi, sự nghiệp diễn viên của chị thật ngắn ngủi. Do có năng lực về hội họa, vài năm sau, chị được chuyển sang bộ phận thiết kế mỹ thuật. Trường quay thực hiện các bộ phim đều cần những phông vẽ lớn thay cho cảnh thật. Đoàn Lê thường phải đứng trên  giàn giáo cao, tay cầm chiếc máy phun màu nặng 5 kilôgam để vẽ những cảnh bầu trời, cảnh đồng lúa mênh mông hay những khu nhà của thành phố nhấp nhô... Đã trải qua những năm bom rơi đạn nổ và vượt qua cả thói đời bủa vây, vậy mà đến khi làm việc vẽ phông màn cho trường quay, nhiều khi mệt đến đứt hơi, và cũng có lúc chán nản, chị muốn bỏ điện ảnh. Ngoài mồ hôi nước mắt đổ ra để có những phông màn vẽ trời vẽ đất, cũng đã lặng lẽ thức dậy trong chị một tình yêu hội họa mạnh mẽ. Mảnh mai, nhưng đầy ý chí, Đoàn Lê đã vượt qua hết cả. Rồi chị quyết đi thi vào trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam. Trúng tuyển, nhưng Xưởng phim không cho chị đi học hội họa. Chị xoay ra hướng khác, viết bài cho các báo, hầu hết bài chị gửi được các báo đăng. Và, Đoàn Lê thấy việc viết mới là việc của đời mình, đã xin chuyển sang làm phóng viên báo Lao động. Báo chấp nhận, đã đi làm hơn một tuần, Xưởng phim lại buộc chị phải quay về.

Vậy là nghiệp điện ảnh không buông Đoàn Lê. Nhưng lúc này, chị đã ý thức rất rõ, viết là nghiệp của chị. Và Đoàn Lê viết kịch bản, hơn nữa còn âm thầm chuẩn bị để sau này sẽ trở thành đạo diễn! Những kịch bản điện ảnh của chị thực sự gây được ấn tượng tốt cho công chúng nghệ thuật điện ảnh, đó là các phim Bình minh xôn xao, Cha và con, và nổi tiếng nhất là Làng Vũ Đại ngày ấy (chuyển thể từ truyện ngắn của nhà văn Nam Cao)… Và rồi, Đoàn Lê cũng đã trở thành một đạo diễn của Xưởng phim truyện, sau được đổi gọi là Hãng phim truyện Việt Nam. Việc viết kịch bản và việc làm đạo diễn điện ảnh, Đoàn Lê vẫn làm suốt từ đó cho đến sau khi nghỉ hưu và cả những năm cuối đời.

DUYÊN PHẬN CỦA ĐỜI VĂN

Văn chương mới thực sự là cái nghiệp của Đoàn Lê. Vào năm 1988, đời sống văn học Việt Nam đã ghi nhận điều đó, khi chị cho xuất bản tiểu thuyết Cuốn gia phả để lại. Kể từ khi đăng chùm truyện ngắn đầu tay, Đoàn Lê có hơn mười lăm năm nếm trải, tích lũy vốn sống và suy ngẫm về nghề văn, rồi mới bắt tay vào viết tiểu thuyết. Bởi vậy, Cuốn gia phả để lại được bạn đọc và nhiều bạn văn, trong đó có chúng tôi, thấy sửng sốt, vì nó hay. Và vì thấy Đoàn Lê đã tỏ rõ một nghệ thuật viết tiểu thuyết thật già dặn. Cả hệ thống nhân vật khá chằng chịt được tổ chức rất khéo léo, tự nhiên, tạo nên vẻ đẹp chỉnh thể của tiểu thuyết; và nó còn được diễn đạt bằng thứ ngôn ngữ nền nã, tinh tế, nhiều khi hóm hỉnh, lịch lãm và dữ dội nữa. Nhân vật trong Cuốn gia phả để lại không chỉ là những số phận đơn lẻ, mà là loại nhân vật tập thể, là cả một dòng họ, mà hiển hiện rất sống động, đầy hồn vía. Chúng tôi cho rằng, văn chương Việt Nam ta nửa cuối thế kỷ XX hiếm có một tiểu thuyết phong tục với ngôn ngữ đẹp đẽ và cũng hiện đại như Cuốn gia phả để lại. Với phẩm giá văn chương của tiểu thuyết đầu tay này, nhà văn Đoàn Lê đã được trao Giải thưởng Hội Nhà văn 1989-1990.

Đã nhiều lần chúng tôi nghĩ rằng, Đoàn Lê về sống ở quê chồng, làng Kim Lủ, đã phải nếm trải quá nhiều buồn vui, khổ nhọc. Nhưng đối với đời văn của chị, đó lại là một duyên phận thật lạ lùng. Làng quê Đoàn Lê về cư ngụ với biết bao sự đời, biết bao con người sau thành nhân vật của chị, không chỉ trong Cuốn gia phả để lại, mà cả trong nhiều truyện ngắn và tiểu thuyết viết những năm sau này, với cái tên là xóm Chùa. Dòng họ mà chị gia nhập với tư cách là con dâu, rất vinh hạnh (hay bất hạnh?), có một cụ tổ là danh nhân. Đến thời mà Đoàn Lê viết trong Cuốn gia phả để lại, các thành viên trong họ tộc đều muốn giằng giật lấy một mảnh danh nhân cho riêng mình, nên đã nẩy sinh xích mích, xô xát, kiện tụng. Do chuyện phế trưởng, lập thứ; chuyện vợ lẽ con thêm bị coi như đứa ở, con hoang; chuyện tranh giành mảnh đất có ngôi nhà thờ họ… khiến xung đột đổ máu có thể bùng nổ. Nhân vật - dòng họ dưới ngòi bút Đoàn Lê lúc mang màu sắc truyền thuyết, khi thì hiện đại, sinh động qua biết bao chi tiết đời thường. Vợ chồng Mỗ - Tự và bà mẹ sống hiền lành, trong sáng, nhưng khi cần thiết cũng biết phản kháng quyết liệt. Cánh họ Trần cùng nhóm mợ phán Ba, Ngọc Đường, Ty, là loại người quay quắt, xảo quyệt, mưu sâu kế hiểm, gian tham và độc ác đến trắng trợn… Là tiểu thuyết phong tục, lại cũng nhiều yếu tố tự truyện, Cuốn gia phả để lại có sự hiện diện “cô Kiều của Điện ảnh khóa I” đã xông ra bảo vệ chồng, con, khi người trong họ rậm rịch giáo mác kéo đến bao vây nhà chị. Chị còn chủ động mặc chiếc áo bay của con gái, màu đỏ gắt với hàng khuy bạc lanh canh tiếng kim khí. Và nó thực sự có hiệu quả trước tình huống dữ dằn đó… Sau này, có người bạn đã hỏi nữ sĩ Đoàn Lê rằng, đơn thương độc mã vậy không sợ sao? Chị cười rất hiền: “Có, sợ chứ, nhưng tình thế khiến mình phải gồng lên đấy thôi”.

Với cái đà của Cuốn gia phả để lại, Đoàn Lê liên tục cho xuất bản: tiểu thuyết Người đẹp và đức vua (1991), tập truyện Thành hoàng làng xổ số (1992), tiểu thuyết Lão già tâm thần (1993). Nổi trội trong văn chương của chị vẫn là những chuyện đời, chuyện nhân tình thế thái ở cái làng ven đô mà chị gọi là xóm Chùa: Đất xóm Chùa, Nghĩa địa xóm chùa, Trinh tiết xóm Chùa, Người đẹp xóm Chùa, Giường đôi xóm Chùa… Những truyện về xóm Chùa đó, là đời sống nhiều tầng nhiều vẻ ở một vùng quê, cứ dài sâu thêm mãi. Vâng, do đời văn có cái duyên phận lạ lùng, nên Đoàn Lê đã tạo nên một xóm Chùa trong văn học Việt Nam hiện đại, như hơn nửa thế kỷ trước Nam Cao tài năng đã tạo nên một làng Vũ Đại trong văn chương. Đúng như chị tâm sự với chúng tôi: “Xóm Chùa là hình ảnh các làng quê xứ Bắc nửa cuối thế kỷ XX thu nhỏ lại, chất chứa biết bao nỗi niềm sự đời”. Giáo sư, Nhà giáo Nhân dân Nguyễn Lân Dũng, nguyên Đại biểu Quốc Hội các khóa X, XI, XII là một độc giả quan tâm nhiều tới văn chương Việt Nam hiện đại, ông nhìn nhận về Đoàn Lê: “Tôi khâm phục văn tài của Đoàn Lê vì chị đã làm cho người đọc không thể không khắc khoải suy nghĩ và lo âu cho tương lai nông thôn nước ta trước những diễn biến đi ngược lại với truyền thống nhân văn, nhân ái hàng ngàn năm qua… Có lần tôi đã thẳng thắn nói giữa diễn đàn Quốc Hội là mỗi chúng ta nên đọc tác phẩm Trinh tiết xóm Chùa của nữ sĩ Đoàn Lê, để hiểu thêm nông thôn nước ta đang có những diễn biến tiêu cực ra sao? Có biết thì mới hy vọng thay đổi được cái nơi mà phần lớn cư dân nước ta đang sinh sống!”

Loạt truyện ngắn về xóm Chùa mà Đoàn Lê viết một cách tài hoa và nặng tình đời, không chỉ được bạn đọc trong nước đón nhận, mà còn được các dịch giả quốc tế chuyển ngữ ra nhiều thứ tiếng và phát hành ở Mỹ, Pháp, Thụy Điển… Độc giả nhiều nước đọc Đoàn Lê, và họ hiểu là ở Việt Nam có một xóm Chùa, nơi chất chứa thật nhiều những buồn vui trong cõi người. Khi tuyển tập truyện ngắn The cemetry of Chua village and Other stories do dịch giả nổi tiếng Wayne Karlin dịch sang Anh ngữ từ loạt truyện Nghiã địa xóm Chùa (1996), được độc giả Mỹ và một số nước nói tiếng Anh rất ưa thích. Đã có nhiều bài viết giới thiệu về tác phẩm này, chứng tỏ sự quan tâm của bạn đọc nước ngoài đối với văn học Việt Nam rất tinh tế và sâu sắc. Đơn cử, tạp chí Consortium Distributors (Nghiệp đoàn xuất bản) đã bình giá: “Đoàn Lê được ghi nhận ở sự đa dạng và tươi mới trong sáng tạo. Với giới học giả, những truyện ngắn này cho họ một cái nhìn sâu vào văn hóa Việt Nam sau Đổi mới. Với người đọc nói chung, đó là những tác phẩm bao quát và đầy tính nhân văn về những đề tài như lòng tham, hôn nhân, ly dị, tuổi già; và đó là những tác phẩm nói về quyền con người được viết với sự thấu hiểu tất cả những bí ẩn tinh tế của trái tim con người!”.     

TÌNH NGƯỜI ĐA ĐOAN

Thời Đoàn Lê sống ở “xóm Chùa”, chúng tôi thỉnh thoảng có đến thăm. Có lần, thấy chị chỉ chuyên chú vào vẽ, tôi cho rằng, có lẽ con người họa sĩ trong chị đang trỗi dậy. Ướm hỏi, thì chị nói, “Vẽ để nghỉ ngơi, Anh Chi ơi, viết văn xuôi nó đau đớn lắm”. Chị mệt mỏi, như người đang ốm, nhưng chung quang ngổn ngang những bức tranh sơn dầu. Vẽ để nghỉ ngơi, nhưng đùng một cái, Đoàn Lê mở triển lãm và được công chúng mỹ thuật rất quan tâm, khen ngợi. Khi đó tôi đã nghĩ, Đoàn Lê họa sĩ? Đoàn Lê biên kịch và đạo diễn? Đoàn Lê thi sĩ? Đoàn Lê nhà văn? Và tôi tự khẳng định, làm văn chương là đúng nhất với chị! Bởi, trong mỗi bức tranh chị vẽ, như ẩn chứa một câu chuyện kể. Và chính chị cũng nói: “… mỗi bức tranh tôi vẽ như một truyện ngắn của tôi vậy. Đôi khi từ truyện ra tranh, từ tranh vào truyện. Ví như tôi vẽ bức Hoa bèo là gợi ý từ truyện Người đẹp xóm Chùa”. Đoàn Lê sống không bon chen, nhiều khi còn né tránh sự ganh đua ồn ào, chỉ lặng lẽ làm việc của mình, đi theo con đường của mình đã chọn. Sống vậy mà trong tình duyên chị lại gặp thật nhiều trắc trở. Chia tay người chồng đầu tiên thời thiếu nữ ngây thơ, chị bỏ lại tất cả tiền bạc, vật chất, chỉ mang theo hai con gái là Lê Điệp và Quỳnh Lê, tự nuôi nấng (may là có sự trợ giúp tận tình của em gái Đoàn Thị Tảo!) Sau, Đoàn Lê yêu và kết hôn với đạo diễn Tự Huy, có được người con trai. Năm 1998, Đoàn Lê nghỉ hưu, cuộc hôn nhân lần thứ hai này cũng đổ vỡ, vì lòng người đổi thay. Như một sự hận đời, Đoàn Lê bỏ làng Kim Lũ, Hà Nội về xóm Núi, Đồ Sơn, cùng em gái Đoàn Thị Tảo mua hai căn nhà, cách bãi biển vài trăm mét. Tạo dựng nơi ăn chốn ở mới, không thể nói là không cực nhọc. Nhưng Đoàn Lê là người rất kiên cường, mạnh mẽ, viết văn chị dám động đến cả những chuyện ghê rợn là cho cả đám hồn ma đội mồ dậy bàn chuyện thế sự (truyện Nghĩa địa xóm Chùa). Chị đã vượt qua hết, và lại có thể viết văn!

Năm 2006 chị đoạt Giải thưởng Liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam. “Đó là chút ít bù lại cho người viết văn xuôi, nó đau đớn lắm” - Đoàn Lê rất vui và nói vậy, khi bạn bè ở nhà 51 Trần Hưng Đạo Hà Nội chúc mừng chị. Có người bạn văn hỏi chị, “thế còn làm thơ?”; người bạn ấy còn đọc, “ngày chị sinh trời cho làm thơ…”. Hôm đó tôi rất mừng vì thấy chị khỏe và vui. Ai có ngờ, câu ấy lại vận vào đời thơ Đoàn Lê, chỉ hơn một năm sau, người con trai duy nhất của chị bỗng lâm bệnh hiểm, qua đời ở tuổi 37! Chúng tôi biết, không thể viết hết được những đau đớn của Đoàn Lê trước mất mát lớn đến vậy. Chỉ xin nói về nột nét đau thương ở chị, là thơ đã bùng lên, nó vò xé trái tim chị: Con ơi, sao con lại chỉ là tấm ảnh?.../ Bát cơm giỗ con tuần cuối, tuần đầu/ Chưa bát cơm nào mẹ nấu con ăn/ Lại đắng lòng đến thế… Bài Tấm ảnh thờ là thứ thơ trời bắt phải viết, mà tan nát cõi lòng:

Thảng thốt suốt đêm

Mẹ vẫn đợi chờ

Tiếng con gọi

Ngoài kia sương xuống lạnh

Con ơi, sao con lại chỉ là tấm ảnh?

Tấm ảnh nghe được gì đâu,

nói được gì đâu?...

Muốn hay không, thời gian cứ trôi qua, Đoàn Lê đã gượng lên, để lại viết. Năm 2010 chị cho xuất bản tiểu thuyết Tiền định. Dịp đó, có tờ báo đặt tôi viết bài về chị, bỗng thấy thật thương và quý trọng chị, nên gọi điện thoại hỏi thăm. Hóa ra Đoàn Lê đang cùng đoàn làm phim vào Nghệ An để làm bộ phim Cội nguồn thiêng, dựng lại cuộc đời bà Hoàng Thị Loan, thân mẫu Hồ Chủ Tịch. Chị vừa là tác giả kịch bản, vừa là đạo diễn. Chị nói: “Chi vào Nghệ An, làm khách của đoàn làm phim đi”. Qua giọng nói biết Đoàn Lê khỏe, tôi rất mừng khi chị đang rất hào hứng sáng tạo nghệ thuật: “Chi ơi, ngày 18 tháng 8 này là bắt đầu bấm máy quay rồi!”... Tới năm 2013, đoàn làm phim Cội nguồn thiêng lại vào Nghệ An, đang quay những trường đoạn cuối thì Đoàn Lê lên cơn đau tim cấp. Vì muốn hoàn thành bộ phim cuối cùng chị làm đạo diễn, dịu cơn đau được một tí Đoàn Lê lại đòi ra trường quay. Nhưng ra trường quay được mươi phút chị lại lả đi, phải thuê xe cấp cứu ra Hà Nội, may mà kịp đặt 3 stan tim!.. Vậy đấy, đã có tuổi mà phải dứt bỏ ngôi nhà ở Kim Lủ, Hà Nội, về xóm Núi ở Đồ Sơn Hải Phòng tạo dựng lấy ngôi nhà vườn để được yên ổn sống cuộc đời của mình, đối với con người đa đoan như Đoàn Lê, đâu có dễ. Đã tới chặng đời không bệnh nọ, cũng bệnh kia, chị lại phải quay về Hà Nội, ở với con gái Quỳnh Lê tại Phùng Khoang, cho gần bệnh viện… Nhưng rồi, sau ngày 6 tháng 11 năm 2017, thì cả Đồ Sơn Hải Phòng và Phùng Khoang Hà Nội đều vắng bóng Đoàn Lê. Thay chị ở lại với cõi đời này, là những bài thơ tài hoa và đa đoan trời bắt phải làm; là những trang văn nền nã mà sâu sắc, dữ dội; là những bức tranh như ẩn chứa những câu chuyện kể về phận người. Trong đó, có bài thơ Lời tạ từ để lại lần cuối cùng chị làm theo ý trời, không phải là câu, chữ nữa, mà như con người chị vừa dứt áo ra đi vừa ngoái lại nói với chúng ta thật dịu dàng, cũng thật nhiều buồn thương:

Xa ngái đấy người yêu dấu ơi

Từ kiếp này tới một kiếp xa xôi nào đó

Liệu ta có thể gặp nhau lần nữa

Góc biển chân trời đầy những rủi may

Để em nói nốt một điều chưa nói hết hôm nay

Thương lắm lắm người yêu dấu ơi

Em ngơ ngác anh ngơ ngác

Đan ngón tay vào nhau mà vẫn lạc…

Hai đứa trẻ dại khờ đã chết rồi

Một biển buồn để lại phía sau thôi!

Anh Chi

Nguồn Văn nghệ số 37/2023


Có thể bạn quan tâm