May 18, 2024, 11:50 am

Không chỉ là “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không”

Cách nay gần 30 năm, hướng tới kỷ niệm 50 năm Ngày thành lập QĐND Việt Nam (22/12/1994), Bộ Văn hóa – Thể thao đã có đề án xây dựng 4 bộ phim lớn có tính liên hoàn sử thi, khắc họa tầm vóc của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Theo đó, 4 bộ phim này sẽ như 4 tập khắc họa 4 chiến dịch lớn.

Tập 1 là Hà Nội 12 ngày đêm; tập 2 là Giải phóng Đà Nẵng; tập 3 là Giải phóng Buôn Ma Thuột và tập 4 là Giải phóng Sài Gòn. Người chấp bút đề cương chi tiết cho 4 tập phim này là nhà văn Thiếu tướng Hồ Phương. Ông cả đời gắn bó với quân đội, đọc nhiều tiếp xúc nhiều tham gia chiến trận bằng cây bút cũng nhiều nên ông khắc họa khá rõ nét đề cương của 4 tập phim này. Các nhà văn quân đội tiếp theo như Hữu Mai, Chu Lai cũng đều là những nhà văn sắc sảo, tài năng được mời tham gia nhóm biên kịch. Các tác giả ấy đều đã có những tác phẩm văn học để đời viết về quân đội, về chiến tranh. Hai nhà biên kịch dân sự là tôi (Nguyễn Thị Hồng Ngát) và Đinh Thiên Phúc tham gia đóng góp thêm về chuyên môn nghệ thuật.

Nhóm biên kịch những bộ phim sử thi mang hoài bão lớn, tư tưởng lớn trên đây được Cục Điện ảnh tung trở lại các chiến tường xưa để tìm tài liệu và gặp gỡ các nhân chứng, vật chứng của lịch sử. 1994 là năm chưa xa với cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Các tướng lĩnh nổi tiếng ngày ấy còn khỏe mạnh như Đại tướng Võ Nguyện Giáp, thượng tướng Văn Tiến Dũng... đều nhiệt tình gặp gỡ và trò chuyện với nhóm tác giả. Đoàn đi đến đâu cũng đều được quân đội đón tiếp niềm nở và chu đáo. Ai trong số họ cũng đều mong những năm tháng oai hùng đó được làm sống lại trên màn ảnh lớn…

Thế rồi mất thêm mấy năm họp hành, bàn bạc rồi thi thố viết kịch bản… nhưng cuối cùng dự án gần như đổ bể. Cho đến bây giờ tôi vẫn cảm thấy việc thi thố viết kịch bản giữa 5 nhà văn, nhà biên kịch là có gì đó máy móc, cứng nhắc, khiên cưỡng… của lãnh đạo Cục Điện ảnh lúc bấy giờ. Lại nữa, dù một người hay một nhóm cùng làm thì cũng phải dựa vào đề cương chi tiết của nhà văn Hồ Phương. Cho nên tuy đề cương 4 tập lớn như thế, nhưng cuối cùng chỉ tập trung làm được mỗi tập 1 Hà Nội 12 ngày đêm, sản xuất năm 2002, nhân dịp kỷ niệm 30 năm “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không”. 3 tập còn lại cho đến tận bây giờ mãi mãi vẫn ở dạng đề cương. May sao, sau này đạo diễn Long Vân làm được bộ phim Giải phóng Sài Gòn, công chiếu năm 2005, nhưng bộ phim này không nằm trong seri chuỗi ý tưởng 4 tập nói trên.

Bộ phim Hà Nội 12 ngày đêm do NSND Bùi Đình Hạc đạo diễn và khởi quay năm 1997. Những cảnh máy bay Mic chiến đấu trên bầu trời đánh trả B52 của Mỹ phải làm kỹ xảo mà kinh phí khi ấy đã luôn luôn bị thiếu hụt hoặc được rót nhỏ giọt. Phim có hơn 3 phút kỹ xảo mà phải chi tới 620 triệu đồng. Đó là số tiền khá lớn lúc bấy giờ. Đạo diễn và quay phim phải sang tận Úc mới làm được. Do đó tiến độ sản xuất bị co dãn, mãi đên năm 2002 mới hoàn thành. Bộ phim dài 120 phút có nhiều cảnh quay đẹp và có nhiều gương mặt tên tuổi tham gia và được đánh giá là một bộ phim đầy ắp chân dung những con người bình dị nhưng hết sức kiên cường, quyết tâm sống chết với thủ đô thân yêu trong những thời khắc lịch sử hào hùng. Phim Hà Nội 12 ngày đêm đã giành giải Bông sen bạc tại Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 14. Bộ phim cũng đã tham dự 10 Liên hoan phim quốc tế. Tại Liên hoan phim Fukuoka (Nhật Bản) năm 2003.

Cũng cần kể thêm trước đó gần 30 năm, Điện ảnh Việt Nam đã có bộ phim Em bé Hà Nội cùng đề tài trên đây, phim được khởi quay mùa hè năm 1973, nửa năm sau chiến thắng “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không”. Phim xoay quanh câu chuyện em bé Ngọc Hà ở Khâm Thiên, sau một trận ném bom ác liệt mùa Đông năm 1972, bị thất lạc gia đình, cô bé đi tìm bố mẹ và em gái giữa khung cảnh đổ nát, hoang tàn của Hà Nội. Bên cạnh lên án cuộc chiến xâm lược bạo tàn và phi nghĩa thì Em bé Hà Nội nhằm ca ngợi tình yêu thương, đoàn kết của người Hà Nội dù đang trong bối cảnh tang thương… Em bé Hà Nội đã được ghi nhận bởi hàng loạt giải thưởng cao quý, như: Bông sen vàng tại Liên hoan phim Việt Nam lần III năm 1975; Giải đặc biệt tại Liên hoan phim Quốc tế Moskva năm 1975; giải thưởng của Mặt trận giải phóng Palestine tại Liên hoan phim quốc tế Syria năm 1975 cùng nhiều giải thưởng cá nhân khác.

Mặc dù 2 bộ phim kể trên đều là những tác phẩm điện ảnh có chủ đề tư tưởng và nghệ thuật cao, nhưng vẫn chưa khái quát đầy đủ tầm vóc của sự kiện lịch sử. Còn rất nhiều vấn đề của “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không” chưa được khắc họa rõ nét, ví dụ: Dự đoán rất sớm và rất chính xác của Bác Hồ và Bộ Chính trị để có sự chuẩn bị đối phó hiệu quả với B52 trên bầu trời Hà Nội; cách đánh B52 sáng tạo, độc đáo của bộ đội phòng không-không quân; ý nghĩa của chiến thắng đối với cục diện kháng chiến… Và nữa: Phía bên kia họ toan tính gì khi mở chiến dịch đánh phá Hà Nội bằng B52? Họ đã bất ngờ như thế nào khi gặp sức kháng cự của quân và dân Hà Nội? Cảm giác của họ như thế nào trước con số 34 “pháo đài bay” bị rụng và hơn 100 phi công thiện chiến bị thiệt mạng hoặc bị bắt? Vân vân… Tóm lại là “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không” vẫn đang chờ đợi và hi vọng vào những tác phẩm nghệ thuật hay hơn nữa, xứng tầm hơn nữa, trong đó có các tác phẩm điện ảnh.

Năm tháng sẽ dần qua đi, thời gian càng lùi xa những cột mốc lịch sử kháng chiến giải phóng dân tộc, những bộ phim về chủ đề này liệu có còn nhiều nghệ sĩ điện ảnh tha thiết? Bối cảnh ngày một đổi khác, tài chính dành cho điện ảnh từ ngân sách Nhà nước càng ngày càng eo hẹp. Từ năm 2006, khi Luật điện ảnh lần đầu tiên được ra đời, đến nay cả nước đã có hơn 500 hãng phim tư nhân. Một con số không nhỏ. Dù vậy, những bộ phim lớn có ý nghĩa chính trị, lịch sử thì Nhà nước vẫn quan tâm đầu tư, nhưng kinh phí thì vô cùng nhỏ giọt và ngày càng khó khăn, nhất là khâu duyệt giá (duyệt tổng dự toán) của bộ phim. Không có tài chính thì không thể làm phim được. Nhưng nếu những người thay mặt Nhà nước có trách nhiệm quan tâm, quản lý điện ảnh mà không am tường đặc thù của điện ảnh, áp dụng một cách máy móc như duyệt các nguyên vật liệu của công trình xây dựng, hoặc các ngành nghề thông thường khác… thì làm sao có được phim cất lượng cao? Mặt khác, cái cung cách xem xét chi li, chặt chẽ từng mục nhỏ mà bỏ mất cái lớn hơn, làm cạn đi niềm cảm hứng, lòng nhiệt huyết sự say mê sáng tạo của nghệ sĩ thì bộ phim nếu có được tài chính để làm thì các nghệ sĩ cũng đã cảm thấy vô cùng mỏi mệt rồi. Dần dà người ta không còn mấy hào hứng, nếu không nói là sợ hãi không dám đi vào đề tài này.  

Thiếu tiền, thiếu kinh nghiệm, thiếu trường quay, thiếu phục trang đạo cụ, thiếu nhân tài… là những lý do đã được bàn khá nhiều. Nguyên nhân của những cái thiếu trên đây là chúng ta còn thiếu một tầm nhìn chiến lược cho mảng phim đề tài chiến tranh cách mạng và khi triển khai những dự án cụ thể thì thiếu tính chuyên nghiệp. Chính vì hai cái thiếu căn bản ấy, nên chúng ta thường làm phim kỷ niệm trong tình trạng “nước đến chân mới nhảy”. Việc lựa chọn kịch bản, chọn nhà sản xuất, chọn đạo diễn-diễn viên… đôi khi cũng rất “ngẫu hứng” hoặc còn chịu ảnh hưởng cơ chế “xin-cho”. Làm phim trong điều kiện như thế nên sản phẩm cuối cùng chỉ được trình chiếu vài buổi chào mừng kỷ niệm rồi cất vào kho, chẳng còn ai nhắc, ai nhớ!

Rõ ràng điện ảnh Việt Nam không thể ngồi chờ mà có thể và nhất thiết phải sớm khắc phục những cái thiếu trên đây để tương lai không xa, chúng ta sẽ có những bộ phim lịch sử tương xứng với truyền thống hào hùng và văn hiến của dân tộc; góp phần khắc phục thực trạng đau lòng “dân ta không biết sử ta” trong một bộ phận nhân dân-nhất là thanh niên, thiếu niên-hiện nay. Nghĩa là ngay từ bây giờ chúng ta vẫn phải tiến hành làm phim đề tài lịch sử, đặc biệt là lịch sử chiến tranh cách mạng, nhưng phải bắt đầu những công việc từ nền móng...

Nhà thơ Nguyễn Thị Hồng Ngát

Nguồn Văn nghệ số 53/2022


Có thể bạn quan tâm