May 5, 2024, 12:16 am

Ai đi ngược dốc phủ cam một mình

Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường sinh năm 1937, tại thành phố Huế, quê ở Triệu Phong, Quảng Trị. Ông tốt nghiệp Đại học Sư phạm Sài Gòn, nhận bằng cử nhân Văn khoa tại Đại học Huế. Từng hoạt động ở chiến khu Trị Thiên, làm Tổng thư ký Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hoà bình thành phố Huế. Sau năm 1975 chuyển sang hoạt động trên lĩnh vực văn nghệ tại Huế, có thời gian làm Tổng biên tập Tạp chí Cửa Việt (Quảng Trị).

Hoàng Phủ Ngọc Tường là nhà văn tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện đại, có phong cách nghệ thuật độc đáo; nhiều tác phẩm của ông được bạn đọc yêu mến như Ngôi sao trên đỉnh Phu Văn Lâu (bút ký, 1971); Những dấu chân qua thành phố (thơ, 1976); Rất nhiều ánh lửa (ký, 1979); Ai đặt tên cho dòng sông (bút ký, 1986); Bản di chúc cỏ lau (truyện ký, 1986); Người hái phù dung (thơ,1992); Hoa trái quanh tôi (bút ký, 1995); Ngọn núi ảo ảnh (bút ký, 2000); Miền gái đẹp (nhàn đàm 2001); Trịnh Công Sơn, cây đàn Lya của hoàng tử Bé (bút ký, 2005)…

Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam (1980); Tặng thưởng văn học UBTQ Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam (1999); và Giải thưởng Nhà nước về VHNT năm 2007.

Do tuổi cao, bệnh trọng, Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường vừa qua đời tại Tp. Hồ Chí Minh ngày 24/7/2023, hưởng thọ 87 tuổi. Hội Nhà văn Việt Nam, tuần báo Văn nghệ xin được gửi lời chia buồn đến gia đình, bè bạn cùng toàn thể độc giả yêu mến của Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường và cầu cho ông thanh thản nơi miền mây trắng, cùng người vợ thủy chung đã gắn bó với ông đến trọn cuộc đời

Văn nghệ

 

Ai đi ngược dốc phủ cam một mình

Nguyễn Duy

Tôi gặp ông Tường lần đầu vào tháng Tư 1973 tại Đông Hà, Quảng Trị - bãi chiến trường vừa im tiếng súng, “cối xay thịt” khổng lồ vừa ngưng vòng quay cuối cùng sau Hiệp định Paris 27/1/1973. Ông nhỏ thó như một con tắc kè ngâm rượu rồi nhưng mang một chức trách to đùng, Trưởng ty Văn hoá - Thông tin tỉnh Quảng Trị thuộc Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam. Một đơn vị hành chính cấp tỉnh (sau này đổi thành Sở) duy nhất ở miền Nam lúc bấy giờ. Trong ngôi biệt thự hai tầng cũ kỹ chi chít vết đạn, ông đãi nhóm nhà văn chúng tôi đi thăm lại mặt trận l (gồm Minh Giang, Hồng Duệ, Bùi Bình Thi, Nguyễn Duy) bữa cơm dã chiến nhớ đời, có cơm trắng, cá nục kho, rau muống luộc với nước mắm dầm ớt xanh cay mà thơm. Ông chững chạc, hoạt bát, ngôn từ giao đãi lịch lãm, sang trọng, thêm giọng Huế diễn cảm, ngược hẳn với hình hài không “tốt mã” của ông. Hiếm có, nếu không nói là không có, một trường ty văn hoá như thế ở nước ta hồi đó. Sau này, khi đã gần gũi nhau tôi mới biết thêm, ông từng được học hành chu đáo, bài bản cả Việt văn, Hán văn, Pháp văn, tốt nghiệp khoá 1 ban Việt - Hán trường Đại học Sư phạm Sài Gòn (1960), nhận bằng cử nhân triết tại Đại học Văn khoa Huế (1964) và từng dạy tại trường trung học phổ thông chuyên Quốc học Huế (1960-1966). “Ông hoàng bút ký” này quả là có vốn tri thức đáng nể, thuộc loại hàng đầu trong đội ngũ các nhà văn Việt Nam…

Mùa thu năm ấy, tôi với Dạ đồng giải nhất cuộc thi Thơ của tuần báo Văn nghệ, (cùng Hoàng Nhuận Cầm và Nguyễn Đức Mậu). Dạ ra Hà Nội lĩnh giải thưởng, gặp tôi mời luôn dự tiệc cưới. Đám Tưởng - Dạ là đám cưới to nhất làng văn nghệ mà tôi được biết, làm tại trụ sở Hội Liên hiệp VHNT Việt Nam, 51 Trần Hưng Đạo, Hà Nội. Hầu như hội đủ những “cây đa cây để” văn chương Việt: Nguyễn Đình Thi, Huy Cận, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Nguyễn Tuân, Hoài Thanh, Anh Thơ, Hoàng Trung Thông v.v... cùng nhiều tác giả trẻ nổi tiếng lúc bấy giờ. Mối tình Bình Trị Thiên khói lửa này còn mang ý nghĩa biểu tượng Bắc - Nam sum họp, nên đã đông lại càng vui, xin kể thêm vào một dịp khác.

*

Bẵng mấy năm xa cách, lần tôi gặp lại cặp chồng Văn - vợ Thơ ấy là gặp tại Huế, tháng Mười năm 1975. Dịp đó, tôi được bám theo đoàn chuyên viên kỹ thuật quân sự của Bộ tư lệnh Thông Tin từ Hà Nội vào tiếp quản mấy trạm viễn thông lớn của quân đội Việt Nam Cộng Hòa ở khu vực Sài Gòn - Vũng Tàu, có nhà thơ Phạm Tiền Duật đi nhờ xe. Đến Huế lúc xẩm tối, Duật rủ tôi tới 26 Lê Lợi thăm Tường - Dạ và Tô Nhuận Vỹ. Tình cờ gặp cả một nhóm anh em văn nghệ Huế: Trịnh Công Sơn, Bửu Chỉ, Lê Khắc Cầm... Vui quá trời! Thế là bỗng nhiên tự phát một cuộc “Thơ - Nhạc Bắc Nam sum họp”, có thể đây là một sinh hoạt thuần văn hoá đầu tiên mang ý nghĩa thống nhất, ngay tại 26 Lê Lợi, trụ sở Hội Văn nghệ Bình - Trị - Thiên vừa được thành lập. Trịnh Công Sơn và Bửu Chỉ búng ghi ta hát tình ca, rồi song ca Nối vòng tay lớn. Phạm Tiến Duật dọc thơ Trường Sơn. Mỹ Dạ đọc Khoảng trời  hố bom. Tôi đọc Tre Việt Nam. Lê Khắc Cầm đọc Mưa Nguồn của Bùi Giáng...

Và, bất ngờ Hoàng Phủ Ngọc Tường đọc thơ. Ám ảnh mãi trong tôi cái thần thái liêu trai của thơ ông:

... Nhà tôi ở phố Đạm Tiên

Dưới dòng nước chảy bên trên

có cầu...

*

Tháng Tư 1976, tôi trút bộ quân phục, chuyển ngành ra làm dân. Trên đường vào Sài Gòn nhậm chức biên tập viên ban Thơ báo Văn nghệ Giải Phóng, dừng lại Huế ít ngày.

Tối 24 tháng Tư, tôi nhập nhóm các ông Trịnh Công Sơn, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Tô Nhuận Vỹ, Bửu Chỉ, ghé chơi nhà Nguyễn Khoa Điềm ở Vỹ Dạ, uống trà và ca hát dưới trăng. Khuya lạnh, chúng tôi rút về nhà Trịnh Công Sơn, 11 Nguyễn Trường Tộ, mua nem Bến Ngự nhắm rượu. Gần nửa đêm, giờ giới nghiêm, ai về nhà nấy. Tôi ngủ lại với ông Sơn. Quá nửa đêm, công an đi kiếm tra hành chính nhà dân. Hình như hôm ấy, 25 tháng Tư, khai mạc phiên họp Quốc hội thống nhất đầu tiên tại Sài Gòn, an ninh siết chặt đặc biệt. Tôi không có giấy tờ tùy thân, vì để trong ba lô gửi nhà Tô Nhuận Vỹ, bị áp giải ra đồn công an Phủ Cam. Ông Sơn lẽo đẽo đi cùng. Hai chúng tôi ngồi chung băng ghế suốt đêm lạnh... Mờ sáng, hết giờ giới nghiêm, ông Sơn được phép đi lấy giấy tờ giải cứu cho tôi.

May thay, sáng hôm ấy, 25 tháng Tư, ông Trần Công Tấn mượn được con xe La Dalat cà tàng, lại xin được cả một can xăng vài chục lít, tự cầm lái đưa tôi cùng ông Sơn, ông Tưởng đi vãn cảnh.

Ông Tường làm hướng dẫn viên, giới thiệu và giảng giải cho tôi mọi điều về Huế. Bái phục ông có cái đầu bách khoa toàn thư, trí nhớ kỳ nhân, cách diễn đạt thuyết khách, khúc chiết và hấp dẫn lạ lùng. Chính ông Tường đã thổi vào thơ tôi cái thần hồn của Huế. Chùm thơ Gửi Huế tôi viết đợt ấy có bài Nhớ Bạn tặng riêng ông. Đọc xong, ông đắc ý, ai đi ngược dốc Phủ Cam một mình... thì đúng là mình rồi!

Hôm nay, con chữ rưng rưng, ngồi trên giường bệnh viết đôi dòng nhớ thương Hoàng Phủ Ngọc Tường, xin chép lại bài thơ này thay cho nén nhang tiễn biệt.

 

 

Nhớ bạn

Với Hoàng Phủ Ngọc Tường

 

Tôi về xứ Huế mưa sa

em ơi Đồng Khánh(*) đã là ngày xưa

tôi về xứ Huế chiều mưa

em ơi áo trắng bây giờ ở đâu

 

Bến Tuần loáng thoáng hàng dâu

em xa vườn lựu từ lâu lắm rồi

lối mòn đá cuội rong chơi

lơ thơ trắng dưới chân đồi hoa mơ

 

Lan báo hỉ (**) nở tình cờ

bông ngô đồng rụng xuống

 bờ Hương Giang

chợ chiều Bến Ngự chưa tan

ai đi ngược dốc Phủ Cam

một mình.

Huế, tháng Tư 1976

______

(*) Đồng Khánh: tên một trường nữ học nổi tiếng.

(**) Lan báo hỉ và ngô đồng là những loại cây hiếm, còn thấy ở cố đô Huế.

 

Tự bạch về một dòng sông

Trong một buổi trò chuyện thân tình với tôi khi nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường chưa bị tai biến, khi được hỏi về thiên bút ký Ai đã đặt tên cho dòng sông, nhà văn cho biết: “Hằng ngày tôi có dịp tiếp xúc với sông Hương và thấy tận mắt những biến ảo trên từng đoạn của nó. Tất cả có thể vẽ thành một dòng sông nguyên vẹn nếu như chắp nối từng đoạn ấy với nhau. Trước 1975, có một lần tôi tôi đứng nhìn sông Hương trên cầu Trường Tiền. Mặt sông bằng phẳng, toả rộng ra và trôi vào bóng tối; có đôi chỗ phập phồng trong làn gió nhẹ như một tà áo lụa và cứ trùng trình như tâm trạng đi không đành trong tình yêu của con sông đối với kinh thành. Tất cả vẻ đẹp ấy cứ vang lên trong tâm hồn tôi thành một nốt nhạc của tình khúc... Tôi chợt nảy ra một ý định tái hiện lại cái khoảnh khắc kỳ ảo ấy của sông Hương. Đó là một lời hứa với dòng sông mà chừng nào chưa thực hiện được thì lòng tôi vẫn băn khoăn, day dứt khôn nguôi…

Tôi có một chị bạn (Việt kiều ở Thuỵ Sĩ) mua một ngôi nhà ở gần Văn Thánh để chuẩn bị về quê. Chị có tổ chức một đêm nhạc Cung Trầm Tưởng. Người đến dự phần lớn là những trí thức Huế. Chị C.H có giọng hát véo von, lanh lảnh, cuốn hút người nghe. Giọng hát của chị ngân vang trên nền đá cẩm thạch của sự im lặng... Ngoài vườn, ánh trăng lọt qua những cành lá, khiến cho bóng đêm có vẻ như chia thành nhiều tầng, nhiều mảng... Con đường nhỏ, những cây dừa cao dọc bờ nước, cồn đất hoang xa xa... tất cả đã khiến cho con sông Hương dường như mang nhiều ý tứ khác nhau. Bỗng nhiên từ đâu vang lại một tiếng động khẽ nhưng rất rõ ràng như một tiếng thở dài. Tôi cảm thấy như có một vị khách không mời, đang nép mình trong bóng tối, dưới mái hiên sau. Người khách ấy tôi nghĩ chẳng phải là ai khác mà chính là sông Hương. Vâng, sông Hương đã trải qua cả ngàn đêm âm nhạc từ những du thuyền trên sông của giới quý tộc xưa đến những đêm nhạc thính phòng như ở căn nhà mới của chị H.C hiện tại... Sông Hương đã nghe thấy, đã lưu giữ những cảnh ấy, những tình ấy... Sông Hương mang trong giòng chảy lững lờ một nét tâm sự của nghìn năm. Sáng ngủ dậy, qua cửa kính phòng khách, tôi thấy sông Hương là một dòng bình yên, thanh thản và vô tận như một nét vĩnh hằng. Nhớ lại những điều đã xảy ra trong đêm hôm qua, tôi thầm nghĩ: Xin cảm ơn người đã đem cuộc đời mình dệt thành tâm hồn của tôi. Cảm ơn sông Hương! Tôi sẽ vẽ chân dung người trong một nét ký hoạ. Thiên bút ký Ai đã đặt tên cho dòng sông như là món quà nhỏ thay cho một chút lòng thành. Đây là bút ký dài nhất và tâm huyết nhất của tôi về Huế. Tôi đã mang cả tâm huyết vẽ nên một dòng sông y như nó vốn có. Dòng sông của văn hóa, lịch sử, huyền thoại... Đó là một thứ tài sản tôi muốn gửi lại cho thế hệ mai sau với lời nhắn gửi: sông Hương như một viên ngọc quý mà thiên nhiên đã ban tặng cho Huế. Hãy bảo vệ vẻ đẹp ấy để nó trường tồn mãi mãi, đừng tham vọng tác động làm thay đổi nó dù điều này không phải dễ...”

Mai Văn Hoan (Ghi)

Nguồn Văn nghệ số 31/2023


Có thể bạn quan tâm