April 19, 2024, 11:46 am

Vĩnh biệt nhà thơ Lê Đình Cánh

 

Nhà báo, nhà thơ Lê Đình Cánh đã qua đời hồi 6h00 ngày 05 tháng 03 năm 2019 (tức 29 tháng Giêng năm Kỷ Hợi) sau cơn bạo bệnh, hưởng thọ 79 tuổi. Trong giờ phút trầm lặng tưởng nhớ ông, nhớ lại đôi nét về cuộc đời và sự nghiệp của ông, một nhà thơ, nhà báo đã có nhiều huân huy chương chống Pháp, chống Mỹ và nhiều giải thưởng văn học…

Vào khoảng giữa năm 1973, một người quê Thọ Xuân (Thanh Hóa) trạc tuổi 30 đến chơi, làm quen với anh chị em Phòng Văn học - Ban Văn nghệ -  Đài Tiếng nói Việt Nam. Áo thanh niên xung phong bạc màu, dáng cao, mặt gầy, rắn rỏi. Anh tâm sự thích làm thầy giáo, nhưng bốn năm tham gia thanh niên xung phong, những ngày lửa đỏ, duyên phận đã khiến anh mê làm báo, làm thơ. Anh chị em trong phòng quý lắm. Anh đã trở thành đồng nghiệp phát thanh sau nửa tháng.

Thời gian chứng tỏ ông yêu thích nghề phát thanh thực sự, thời gian gắn ông vào các tiết mục văn nghệ dành cho thiếu nhi hoặc Tiếng thơ, Đọc truyện đêm khuya, Câu chuyện truyền thanh… Nhưng thời gian cũng chính là người giúp ông có điều kiện đọc nhiều sách báo. Ông cũng dành thời gian đi đây đi đó viết nhiều bút ký theo nhịp lao động chiến đấu của đất nước. Có lúc ông phụ trách phòng Văn nghệ thiếu nhi và sau này ông là Phó Trưởng Ban Văn học Nghệ thuật cho tới khi nghỉ hưu. Ông gắn bó với nghề báo, chẳng ai nghe ông kêu ca, phàn nàn chuyện này chuyện kia. Ông thường ngồi ôn lại chuyện đời, chuyện nghề: Chúng mình sống dưới cái cây phát thanh thì gắng vun đắp cho cái gốc ấy.

Thấm thoát, người thanh niên xung phong năm xưa đã trở thành nhà thơ Lê Đình Cánh nổi bật trong làng thơ, trong thể thơ lục bát truyền thống. Thơ ông ngày càng nhuyễn chất đời, chất xã hội, sâu sắc hơn. Nói đến thể thơ lục bát hiện nay, ông là một trong những tác giả được nhớ nhất. Những tập thơ chính của ông như Đất lành, Người đôn hậu… vẫn chủ yếu là dòng thơ lục bát truyền thống đậm đà. Dù thơ Việt Nam hiện nay có nhiều phong cách, bút pháp thể hiện hay, nhưng ông vẫn chung thủy với cây bút lục bát tài hoa của mình, khiến nó có sức lay động lòng người. Ông viết về chiến tranh với thắng lợi và mất mát, viết về người mẹ, viết về những số phận bị khuất lấp, đau đớn, viết về cái vui cái buồn trong cuộc sống hiện nay. Thơ ông san sẻ, cảm thông, kết nối, đôi khi mang giọng điệu châm biếm hóm hỉnh, ý vị mang hiệu quả bất ngờ. Ông là tác giả được 3 lần đoạt giải thơ Tuần báo Văn nghệ của Hội Nhà văn Việt Nam.

Trong tập thơ Sông Cầu Chày, ông trăn trở:

Người xưa gửi lại điều chi

Người nay ký thác những gì cho sau…

Trọng bệnh đã cướp bớt thời gian của ông, nhà báo - nhà thơ Lê Đình Cánh. Ông không còn có thể trực tiếp tâm sự, giãi bày giữa thế gian những nỗi niềm. Nhưng thôi, dù đau xót, thương tiếc ông, chúng ta vẫn có thể thấy được con người đôn hậu, gắn bó với sự nghiệp báo chí, sự nghiệp thơ, gắn bó với đất nước, với Tiếng nói Việt Nam qua những tác phẩm ông để lại.

Lễ viếng nhà báo – nhà thơ Lê Đình Cánh bắt đầu từ 7h30 đến 8h45 ngày 08/03/2019 (tức 3/2 năm Kỷ hợi) tại Nhà tang lễ Bộ quốc phòng, số 5 Trần Thánh Tông, Hà Nội

Trần Nhật Lam (Trích Điếu văn nhà thơ Lê Đình Cánh)

 

 

NHỮNG VẦN LỤC BÁT ÂN TÌNH

Nguyễn Ngọc Quế                

Vào buổi chiều muộn tháng tám oi nồng, nhà thơ Lê Đình Cánh gọi điện cho tôi: “Anh vừa ở viện về, viết được vài bài thơ em đến cùng đọc nhé”. Giọng vẫn ấm rõ ràng chẳng có gì là người có bệnh hiểm nghèo. Tôi vội có mặt ở 168 Trường Chinh. Ông Cánh mở cửa chờ sẵn, đón vào căn phòng rộng hơn 15m2 có bộ salon gỗ cũ đơn sơ và ấm trà thơm pha sẵn…

Lê Đình Cánh thong thả châm trà, tôi ngắm vóc người nhà thơ gầy đi, tóc bạc trắng nhưng dáng đi vẫn nhanh nhẹn mà mừng. Ông đang chống chọi căn bệnh hiểm nghèo mấy năm rồi. Hàng ngày đều đặn vào bệnh viện Việt Xô để theo dõi, hóa trị. Chủ nhật và tối ông Cánh trốn về nhà chơi với con cháu và… làm thơ:

Chùa Quán Sứ. Bệnh viện K

Nằm kề hai phía nhà pha Hỏa Lò

Nơi vô lo. Chốn đang lo

Nơi thì thiện ác giằng co một người.

(Quán Sứ bên này)

*

Nhà thơ Lê Đình Cánh sinh năm 1941 ở làng Mía, xã Xuân Tân, Thọ Xuân, Thanh Hóa. Đó là làng quê trung du ruộng đồng, mương đồi xen kẽ, đua chen cây lá tiếng chim. Sông Cầu Chầy chảy ngang như giải lụa nối sông Mã và sông Chu. Mùa cạn sông chảy thong dong qua bãi mía, nương ngô, mùa lũ cồn cào sóng dữ chảy xiết vào tục ngữ: Sông Cầu Chầy bò lội đứt vó, chó lội đứt đuôi và chảy da diết vào tuổi trẻ của Lê Đình Cánh

Đầu sông đã cạn vực Lồi

Ngàn lau, chết trắng bải bồi bên sông

Cuối dòng là ngã ba Bông

Người đi lỡ bến đời không lấm giầy

(Sông Cầu Chầy)

Làng Mía nay là làng Phong Mỹ - ngọn gió đẹp của vùng đất địa linh nhân kiệt trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Người dân thuần phác, nhân hậu ham lao động trọng nghĩa khí. Văn có khúc hát hội Xuân Phả, múa trò Tú Huân, võ có hội thề Lũng Nhai, trống trận Chí Linh quần hùng tụ nghĩa: “Lam Sơn rừng núi ba bề/ Lũng Nhai vang mãi lời thề nước non”.

Kháng chiến chống Pháp thành công, gia cảnh có nhiều xáo trộn khó khăn. Năm 1956 Lê Đình Cánh về học cấp 3 Lam Sơn ở Thị xã, phải lao động thêm: làm phụ hồ, khuân vác kiếm tiền ăn học. Năm 1959 tốt nghiệp cấp 3, ông không được nộp đơn vào đại học mà dấu bằng tốt nghiệp xin lên nông trường làm công nhân, rồi được ty giáo dục gọi về làm giáo viên cấp 2 huyện nhà.

Đất nước bước vào chiến tranh chống Mỹ, thế hệ Lê Đình Cánh gác lại ước mơ tuổi trẻ, nhập ngũ, vào TNXP đi dọc miền máu lửa Trường Sơn. Năm 1965 vào dạy học cho TNXP ở tuyến đường ác liệt Quảng Bình, Quảng Trị. Thày giáo Cánh ban ngày cầm xẻng cuốc ở mặt đường, đêm về cầm phấn chong đèn ở lán rừng sâu dạy học cho đồng đội. Dạy từ lớp 5 đến lớp 8 và đủ các môn: Tiếng Việt, Toán, Lý… Những kỷ niệm đẫm máu và mồ hôi, nước mắt bùn đất neo đọng ký ức nhà thơ.

Năm 1969 thày giáo Lê Đình Cánh được Trung ương đoàn gọi ra Hà Nội công tác. Với đam mê văn học, có bài viết ở Trường Sơn, ông về nhà xuất bản Thanh Niên. Năm 1973 sau khi giành giải thưởng thơ của báo Văn nghệ, ông về công tác ở chương trình Tiếng thơ - Đài tiếng nói Việt Nam. Từ biên tập viên, trưởng phòng, phó ban văn nghệ và với các giải thưởng ở tờ báo Văn nghệ uy tín các năm 1972, 1976, 1990, Lê Đình Cánh xác định phẩm chất của người cầm bút, được bạn đọc yêu mến.

Hồn thơ Lê Đình Cánh được thể thơ lục bát truyền thống nâng bay trên cánh đồng thơ Việt. Một thể thơ đồng hành cùng dân tộc theo năm tháng dài dựng nước và giữ nước, giàu nhạc vần, âm điệu ngôn ngữ được mọi tầng lớp người trong xã hội ưa chuộng. Tinh hoa của nó kết ngọc ở ca dao tục ngữ, làn điệu quan họ, hò ví dặm, khúc chầu văn và dồn cảm ở những câu Kiều tuyệt tác đọc đẫm nước mắt.

Hơn 50 năm cầm bút với tính cách lặng lẽ, ngại phô trương, ông Cánh được các nhà xuất bản in 4 tập thơ: Đất lành (1986), Người đôn hậu (1990), Trời dịu (2001), Sông Cầu Chầy (2015), chọn lọc 185 bài trong đó có 138 bài lục bát, chiếm gần 85%. Một đời góp nhặt từng chữ, từng vần, từng câu lục bát là quá khó của người thơ.

Thơ lục bát của Lê Đình Cánh giản dị, hiện thực đời thường về nỗi vất vả, cần lao của con người. Đó là hình dáng mẹ nghèo ngỡ ngàng từ quê ra Hà Nội thăm con: “Lên thang chẳng dám bước dài/ vào khu tập thể gặp ai cũng chào”. Đó là người nông dân quê lúa Thái Bình: “Mặc quần phăng lại cởi trần/ Vê vê mồi thuốc ba lần châm diêm”. Lê Đình Cánh sáng tạo cách ngắt nhịp 3/3 ở câu sáu, ngắt nhịp 4/4 ở câu tám. Xây dựng trục đối xứng bài, tâm đối xứng câu, đẩy thể thơ lục bát cổ điển vào hồn cảm mới nên đọc rất hiện đại mà dân gian…

Lê Đình Cánh dong buồm con thuyền thơ trên dòng sông thi ca dân tộc, mạch hồn cảm dồn vào ba tình thơ lớn. Tình yêu đất nước qua miền Trung thương nhớ và xứ Thanh nguồn cội. Tình yêu cây lúa và người làm ra hạt lúa trên cánh đồng một nắng hai sương. Tình yêu những con người có số phận éo le, bươn chải mà trái tim trong sáng tin yêu. Ba tình thơ đằm thắm làm lên vóc dáng, phong cách thơ Lê Đình Cánh: “Tôi hát năm canh thành đêm lục bát!”.

Tình yêu nước non này được hồn thơ Lê Đình Cánh neo đậu thủy chung ở Miền Trung gian khó, máu lửa và xứ Thanh nơi sinh thành nuôi dưỡng nhà thơ. Dải đất nghèo núi gồng dáng đứng sông gằn dòng trôi từ Thanh, Nghệ vượt đèo Ngang, Hải Vân, đèo Cả về Tuy Hòa, Phú Yên… dằng dặc nghìn thức mây vàng. Những câu thơ đau buồn mà nghĩa khí gắn kết máu thịt đời người:

Vắng Xứ Nghệ. Thiếu Xứ Thanh

Bỏ qua xứ Huế. Đố thành Miền Trung

Thời gian vơi nửa anh hung

Không gian để trống một vùng thơ văn

… Đất gầy không kịp lành da

Nhiều bom đạn, lắm hồn ma cụt đầu

(Nửa ngoài Miền Trung)

Làng Mía hiền hòa bên sông Cầu Chầy có lũy tre tụ hội lũ chim, có hàng cau vút trời, có ngôi nhà nhỏ mái ngói rêu phong đầy kỷ niệm của Lê Đình Cánh. Mẹ cha mất rồi, còn chị mắt mờ chân chậm ở giữ hương khói gia tiên. Nhà thơ “Ngại” về không phải là vô tâm, mà về sợ gặp lại thời thơ ấu, có hình cha dáng mẹ anh em quây quần. Nỗi buồn trong trẻo “Ngại” thật sự “Muốn” là “Mong”: “Bỗng sao náo nức quá chừng/ Em ơi đã đến. Tàu dừng xứ Thanh”. Về nhà là thương nhớ dâng tràn:

Thầy mẹ mất rồi em ngại về Thanh

Ngại trở về lay chiếc cổng tre

Ngại gõ cửa căn nhà ngói cổ

…. Như bóng mẹ chập chờn lửa bếp

Khói thơm bay mắt chị cay xè

(Về Thanh)

Thế hệ nhà thơ Lê Đình Cánh sống qua hai cuộc kháng chiến giữ nước nhiều gian khổ, hy sinh mất mát, chất hùng ca xen chất bi ca: “Cha khênh pháo cất tiếng hò phía trước/ Mẹ tải lương gieo tiếp mùa sau” và:

Chiến tranh như trận bảo dài

Thổi bao mái tóc con trai bạc dần

(Binh trạm vẫn còn)

Đất nước độc lập tự do, non sông liền một giải hòa bình. Thời bao cấp gian khó chia từng ống gạo mớ rau, thời thị trường bung phá kẻ giàu, người nghèo đổi thay chóng mặt. Mộ người lính vô danh còn đó ở Trường Sơn, anh bộ đội phục viên đi cày người đội viên TNXP về lại lên rừng mở đất. Mẹ chờ con, vợ ngóng chồng thăm thẳm đêm dài. Thơ Lê Đình Cánh nặng về đề tài bi hùng buồn nhớ sau chiến tranh. Ông ngâm khúc nguyện cầu lời sẻ chia với đồng đội. Cao hơn ông muốn dựng tượng đài thơ về các anh hùng liệt sĩ, cựu chiến binh và TNXP sáng đẹp và vời vợi đức hy sinh:

Trái tim xuyên lớp đất dày

Trổ mầm cỏ với mây bay trắng trời

… Lại người đồng chí nằm bên

Nấm mồ để trống dòng tên. Lại người

(Lại người đồng chí nằm bên)

Những câu thơ như bậc cuộc đời nâng bước tâm hồn ta lên hòa đồng những rung cảm: chiến tranh và hòa bình, tao loạn và yên lành, chia ly và đoàn tụ, khổ đau và hạnh phúc trên cõi nhân gian. Lê Đình Cánh đã làm được điều đó. Thơ ông ngôn từ giản dị, thanh khí nhạc âm hòa điệu dễ đọc, dễ thuộc, hát lên cung vui, ngân thành nhịp buồn. Không bóng bẩy câu chữ, phá cách theo mốt hiện đại, Lê Đình Cánh mong thơ mình như làn gió mát, dòng suối trong và khúc đàn bầu thánh thót đêm khuya hát ru những phận người khổ đau mà nhân ái.

Tôi miên man nâng bước theo những bậc đời lục bát ấy. Băn khoăn tự hỏi sao trước nay các nhà thơ, nhà phê bình ít nhìn ngó đến khuôn vườn cảnh quê, hoa nội lặng thầm nhiều hương sắc này. Một đời cầm bút cũng xác định chỗ đứng trong làng văn, nhà thơ Lê Đình Cánh chưa tổ chức hội thảo, PR, in tuyển để quảng bá. Ông cứ lặng lẽ đam mê với những vần lục bát cội nguồn.

Phận người mỏng tang như giấy, đời người ngắn tựa gang tay. Chiều muộn hôm ấy mấy anh em ồn ã vui chuyện, ngoài trời mưa rỉ rả lưu khách. Góc sân cây bưởi núc nỉu quả níu cành. Mùa thu đã về, khí trời dịu mát, mấy chậu cúc vàng tươi như tụ nắng. Thiên nhiên sinh nở non xanh, đời người bóng câu qua cửa, chỉ có Thơ và Ân tình ở lại. Nỗi đau càng dày, tình thơ càng đậm. Dường như Lê Đình Cánh vẫn ngồi kia, mê cảm đọc những câu thơ khát bỏng một ước nguyện:

Một đời người ta được hát là ta

(Có ở Nga Sơn)

 


Có thể bạn quan tâm