Nhiệm vụ của hoạt động dạy học Ngữ văn là giúp học sinh biết vận dụng kiến thức tiếng Việt và kiến thức về lịch sử, xã hội, tư tưởng, triết học và quan niệm thẩm mĩ để hiểu các văn bản phức tạp. Hoạt động này chỉ đạt hiệu quả khi học sinh biết phân tích, đánh giá nội dung và hình thức biểu đạt của văn bản, có những tìm tòi sáng tạo về ngôn ngữ về cách viết, để học sinh có cách nhìn, cách nghĩ về con người và cuộc sống theo cảm quan riêng; biết vận dụng kiến thức tổng hợp để đọc hiểu các loại văn bản, tích hợp kiến thức liên ngành. Từ đó, các em biết cách tạo lập được các kiểu văn bản; thể hiện khả năng biểu đạt cảm xúc và ý tưởng bằng hình thức ngôn từ mang tính thẩm mĩ.
Những vấn đề chung liên quan đếnkỹ năng viết
Viết là hoạt động dùng tay để ghi lại con chữ theo qui luật, cấu trúc của ngôn ngữ; là phương tiện để lưu giữ và trao đổi thông tin bằng các kí hiệu và kí tự của hệ thống ngôn ngữ được sử dụng. Người viết sử dụng ngôn ngữ, thứ tài sản chung của xã hội để tạo ra sản phẩm riêng cho mình, để diễn đạt ý tưởng của mình thành văn dưới hình thức một văn bản hoàn chỉnh.
Bài viết đạt yêu cầu khi có bố cục rõ ràng, đúng thể thức văn bản, lời văn trong sáng, người nghe lĩnh hội chính xác nội dung và mục đích thể thức của người viết. Vì thế, viết là hoạt động giao tiếp đem lại hiệu quả cao. Người viết cần thời gian để trau chuốt, gọt giũa ngôn từ; kết hợp được nhiều thao tác lập luận, các phương thức biểu đạt và các phong cách chức năng ngôn ngữ để truyền tải thông tin đến người đọc, người nghe.
Yêu cầu cần đạt về kĩ năng viết
Với những kiến thức đã tích lũy, với sự trải nghiệm vốn có và sự luyện tập, thực hành, để học sinh biết cách viết được một văn bản hoàn chỉnh, đúng qui trình. Văn bản có thể là văn nghị luận về một vấn đề xã hội, trình bày rõ quan điểm của cá nhân với hệ thống các luận điểm - luận cứ -luận chứng thuyết phục; có thể là văn bản nghị luận phân tích, đánh giá một tác phẩm văn học, một bài hát, một pho tượng, một bức tranh; có thể là văn thuyết minh có lồng ghép một hay nhiều yếu tố như miêu tả, tự sự, biểu cảm, nghị luận; là một báo cáo khoa học, một bài luận về bản thân, bài phát biểu trước hội thảo, hội nghị hay bài viết tranh luận nhằm thuyết phục người khác, bài phát động phong trào.... Khi trình bày, văn phong phải sáng rõ, ý tứ phong phú, dồi dào, lập luận sắc bén, có nhiều sáng tạo trong cách dùng từ, đặt câu, chọn lựa luận điểm, luận cứ và luận chứng. Bài viết phải thể hiện rõ dấu ấn cá nhân, có những tìm tòi, phát hiện mới làm nổi bật tư duy của người viết.
Rèn cách viết cho học sinh
- Trước khi viết
Các em không thể tách rời giữa việc viết với đời sống thực. Nhờ sự tiếp xúc, cọ xát thường xuyên với đời sống thực mà ý tưởng hình thành và có nhu cầu cần biểu đạt. Muốn vậy, học sinh phải có ý thức quan sát, tìm hiểu, ghi chép để vận dụng, thực hành viết. Có hai nguồn tư liệu chính, đáng tin cậy để dùng. Đó là kiến thức lấy từ sách vở; đó là kiến thức từ đời sống, từ trải nghiệm của bản thân. Kiến thức từ trải nghiệm bản thân sẽ là ví dụ minh họa có sức thuyết phục nếu nó được vận dụng vào văn bản một cách tự nhiên, chân thành. Pauxtopxki từng nói “Tưởng tượng mà không dựa trên thực tế thì nó cũng chết”. Nên cần phải có sự trải nghiệm để có vốn sống trong quá trình viết.
Người viết phải đặt câu hỏi và tự trả lời: người đọc sẽ thu được gì khi đọc bài viết. Tại sao họ lại phải đọc và họ sẽ đọc như thế nào. Trên cơ sở đó, người viết xác định đúng nội dung bài viết, sắp xếp các ý tưởng một cách hệ thống, hài hòa, xác định văn phong. Đây là cách giúp người viết giao tiếp với người đọc. Người đọc dễ dàng lĩnh hội được thông tin trong bài viết nhanh nhất, chính xác nhất dựa vào ngôn ngữ sử dụng, cấu trúc, cách lập luận và dẫn chứng minh họa cho bài viết.
- Khi viết
Dù viết về đề tài gì, thể loại nào thì bài viết phải có bố cục 3 phần rõ ràng, mở bài (mở đầu, đặt vấn đề) giới thiệu vấn đề cần viết, thân bài (nội dung chính, giải quyết vấn đề) triển khai vấn đề thành các luận điểm, luận cứ và kết bài (kết luận, kết thúc vấn đề) khái quát, đánh giá chung về vấn đề đã được triển khai. Người viết phải tôn trọng bố cục 3 phần này.
Bài viết cần đa dang về giọng điệu, kết hợp nhiều phương thức biểu đạt và các thao tác lập luận, làm cho vấn đề được nhìn nhận dưới nhiều góc độ khác nhau. Quá trình lập luận cần sự logic, súc tích theo đúng trình tự: luận điểm - luận cứ - luận chứng. Cần lưu ý, tránh việc phân tích, bình luận vấn đề xong mới tiến hành chứng minh những gì mình vừa triển khai. Nếu như thế, các dẫn chứng vừa nêu làm cho người đọc hiểu những chứng minh đó phục vụ cho luận điểm cuối cùng, làm cho bài viết không logic, thiếu chặt chẽ, không đủ sức thuyết phục.
Các dẫn chứng phải được chọn lọc và sắp xếp một cách khoa học, hợp lý. Nếu theo thời gian, phải chọn dẫn chứng xuyên suốt chiều dài lịch sử văn học, từ văn học dân gian đến văn học trung đại, văn học hiện đại và văn học hậu hiện đại. Nếu theo thể loại, dẫn chứng phải bao gồm cả trữ tình lẫn tự sự… Dẫn chứng phải bao quát cả văn học Việt Nam và văn học nước ngoài. Dẫn chứng phải mở rộng ra những tác phẩm nằm ngoài chương trình sách giáo khoa. Có như thế mới mong tìm ra những luận điểm mới, không lặp lại những điều mà người khác đã nói. Sử dụng dẫn chứng sao cho hiệu quả và “nghệ thuật” là một kĩ năng rất quan trọng khi viết. Sự sáng tạo, cái hay, cái đẹp của bài viết toát lên từ đây.
Bài viết phải tỏ rõ tư duy phản biện, lật ngược vấn đề. Đây là cách rèn luyện thói quen độc lập suy nghĩ, nhằm tìm ra luận điểm mới, thể hiện chính kiến, quan điểm cá nhân. Tùy từng vấn đề, cần tìm ý phản đề hay giả định trong những trường hợp cần thiết để lý giải tại sao đưa ra những nhận định, quan điểm đó. Học sinh có quyền đưa ra những ý kiến đối lập với những gì mình đã được học, được nghe, miễn lập luận sắc sảo, đủ cơ sở chứng minh, thuyết phục được người đọc. Học sinh không để bị áp đặt bởi thầy cô, trong khi tự mình có thể viết hay hơn với những ý kiến mới lạ hơn, thú vị hơn. Những bài viết có ý tưởng mới lạ bao giờ cũng được đánh giá cao hơn.
Bài viết tuy rất cần cái tình, cảm xúc thật của người viết nhưng cách diễn đạt cần phải thấu lí, song tránh lối diễn đạt cầu kỳ, hoặc đôi khi rơi vào sáo ngữ. Người viết phải viết với tâm thế trước tiên là viết cho mình, về mình và viết từ mình nên luôn phải chủ động từ trong tư duy cho đến khả năng diễn đạt và cả dẫn chứng minh họa.
Khi thực hành viết, giáo viên cũng nên tạo cho các em thấy được sự khống chế về thời gian, để các em chủ động phân chia thời gian cho nội dung các đoạn và giữa các phần trong mỗi đoạn. Từ đó, giúp học sinh tạo một được thói quen sử dụng quỹ thời gian hợp lý khi làm bài, tránh trường hợp cảm xúc đang tuôn trào mà thời gian đã hết, để bài viết rơi vào kiểu “đầu voi đuôi chuột”.
- Sau khi viết
Viết một bài văn là cách mà học sinh thể hiện những suy nghĩ, quan niệm của mình, thể hiện con người mình. Đọc bài viết của học sinh giáo viên có thể “đọc” được trong đó tính cách con người các em. Nên khâu chấm bài, sửa bài rất quan trọng, nó đòi hỏi khá nhiều sự tỉ mỉ, công phu của thầy cô. Nếu làm tốt các khâu này, học sinh sẽ rút ra được nhiều kinh nghiệm cho những bài viết sau, có thể trưởng thành hơn trong suy nghĩ, trong nhận thức. Để tạo sự khách quan, chính xác trong khâu đánh giá giáo viên có thể đa dạng hóa từ người chấm cho đến cách chấm.
Kết luận
Viết là một trong bốn kĩ năng quan trọng của hoạt động dạy học Ngữ văn. Muốn viết thì cần phải đọc. Viết là minh chứng cho quá trình đọc hiểu, tiếp thu, lĩnh hội những tri thức và khả năng diễn đạt, lập luận của người viết. Viết là cơ hội để mỗi cá nhân trình bày ý kiến, cách chủ động giải quyết vấn đề. Văn bản viết phản ánh khá tổng quát khả năng tư duy, suy nghĩ và con người tác giả. Nếu viết tốt, kỹ năng này sẽ mở ra cho chúng ta nhiều cơ hội và là cách trải nghiệm nhiều thú vị.
Muốn viết văn hay, tốt nhất hãy cứ viết những gì mình suy nghĩ. Mọi tác phẩm văn học kinh điển đều phải xuất phát từ tình cảm thật, suy nghĩ thật mới có thể tồn tại được lâu dài qua thời gian. Tình cảm, suy nghĩ chân thật mới tạo nên tác phẩm có chất lượng.
Nguồn Văn nghệ số 27/2020