April 19, 2024, 11:59 am

“Ulrikke”

Câu chuyện của tôi sẽ theo đúng như thực, hay ít ra theo đúng với hồi ức riêng tôi về sự thực ấy, thứ là cùng một thứ ấy. Các sự kiện này diễn ra cách đây chưa bao lâu, nhưng tôi biết thói quen của văn chương cũng là thói quen đan xen vào những chi tiết tình huống và nhấn vào những chỗ nhấn nhất định. Tôi muốn kể câu chuyện về cuộc tao ngộ của tôi với Ulrikke (tôi chưa từng biết họ của cô ấy, và có lẽ sẽ không bao giờ) ở thành phố York. Truyện này sẽ kéo dài một đêm và một buổi sáng.

Thật dễ dàng với tôi để nói rằng tôi đã nhìn thấy cô ấy lần đầu tiên bên cạnh Năm Chị Em ở York Minster, những tấm kính màu đó trống vắng những hình biểu tượng mà nhà bài trừ thánh tượng Cromwell chừa lại không đụng tới, nhưng thực tế chúng tôi đã gặp nhau trong phòng sinh hoạt cộng đồng của Northern Inn, nằm bên ngoài các bức tường. Chỉ một vài người như chúng tôi còn ở lại phòng, và cô ấy đang đứng quay lưng về phía tôi. Ai đó mời cô ấy một cốc sherry và cô ấy từ chối.

“Tôi là một nhà nữ quyền,” cô nói. “Tôi không có mong muốn bắt chước đàn ông. Tôi thấy thuốc lá và rượu của họ rất kinh”.

Tuyên bố này là một nỗ lực để hóm hỉnh, và tôi cảm thấy đây không phải lần đầu tiên cô ấy nói lên điều đó. Sau đấy, tôi biết được rằng những lời ấy không giống với cô - nhưng những gì chúng ta nói đâu phải lúc nào cũng giống với bản thân chúng ta.

Cô bảo rằng cô đến bảo tàng muộn, nhưng người ta đã cho cô vào khi biết cô là người Na Uy.

“Không phải lần đầu tiên người Na Uy náo động York”, ai đó buông lời.

“Hoàn toàn đúng,” cô bảo. “Nước Anh đã là của chúng tôi và chúng tôi đã để mất xứ ấy - thì, nghĩa là, bất cứ ai cũng có thể sở hữu bất cứ thứ gì hay bất cứ thứ gì cũng thực sự có thể mất đi.”

Đấy là lúc tôi nhìn vào cô. Một câu thoại đâu đó trong William Blake nói về những cô gái mềm tựa bạc hoặc dữ dội tựa như vàng, nhưng ở Ulrikke có cả vàng và tính mềm mại. Cô trông nhẹ nhõm và cao, vóc dáng sắc và đôi mắt xám. Gương mặt cô ít gây ấn tượng đối với tôi mà tôi ấn tượng hơn bởi thần thái bí ẩn điềm tĩnh của cô. Cô mỉm cười rất thoải mái, nụ cười của cô dường như đem cô đến một nơi nào đó rất xa. Cô mặc bộ đồ màu đen – điều không bình thường ở những miền đất phương bắc, nơi người ta cố gắng làm giảm bớt vẻ buồn tẻ của môi trường xung quanh bằng những màu sắc tươi sáng. Cô nói một thứ tiếng Anh gọn gàng, chính xác, hơi nhấn mạnh vào âm r. Tôi chẳng phải người giỏi quan sát; tôi dần dà thấy ra những điều ấy.

Chúng tôi được giới thiệu với nhau. Tôi bảo với cô tôi là giáo sư tại Đại học Andes, ở Bogotá. Tôi nói rõ tôi là người Colombia.

“’Là người Colombia’ là gì?”

“Tôi không chắc,” tôi trả lời. “Đó là một hành động của đức tin.”

“Giống như là người Na Uy,” cô nói, gật đầu.

Tôi không thể nhớ thêm gì hơn về những điều đã nói ra đêm đó. Hôm sau tôi xuống phòng ăn sớm. Tôi nhìn qua cửa sổ thấy tuyết đã rơi; đồng hoang trải ra liền lạc dưới ban mai. Không có ai khác trong phòng ăn. Ulrikke mời tôi ngồi chung bàn với cô ấy. Cô nói với tôi rằng cô thích ra ngoài đi dạo một mình.

Tôi nhớ một câu dí dỏm cũ của Schopenhauer.

“Tôi cũng thích như vậy. Chúng ta có thể cùng nhau đi dạo một mình”, tôi nói.

Chúng tôi đi xa dần khỏi ngôi nhà, lội qua lớp tuyết mới rơi. Không có một linh hồn ngoại quốc nào trên các cánh đồng. Tôi gợi ý chúng tôi sẽ đi xuôi về sông vài dặm, tới Thorgate. Tôi biết tôi đã yêu Ulrikke; không còn người nào khác trên trái đất mà tôi muốn có bên mình giờ đây.

Đột nhiên tôi nghe thấy tiếng hú xa xăm của một con sói. Tôi chưa bao giờ nghe được một con sói tru, nhưng tôi biết rằng đây là một con sói. Biểu cảm của Ulrikke không thay đổi.

Một lúc sau cô bảo, như thể đang suy nghĩ thành lời: “Một vài thanh kiếm tồi tàn mà tôi thấy hôm qua ở York Minster còn gây xúc động cho tôi hơn những con tàu lớn trong bảo tàng ở Oslo.”

Hai con đường của chúng tôi giao nhau ngắn ngủi: buổi tối hôm đó Ulrikke tiếp tục hành trình của cô về London; còn tôi, hướng đến Edinburgh.

“Trên phố Oxford,” cô nói, “tôi sẽ dò theo lại những bước chân của DeQuincey, người đi tìm Anna đã mất của mình giữa những đám đông của London.”

“DeQuincey,” tôi đáp lại, “đừng tìm nữa. Cuộc tìm kiếm cô ấy của tôi, mặt khác, sẽ vẫn tiếp tục, qua mỗi giờ mỗi phút.”

“Có lẽ,” Ulrikke khẽ khàng, “anh đã tìm thấy cô ấy.”

Tôi nhận ra rằng một sự kiện khôn lường không còn bị cấm đối với tôi, và tôi hôn cô lên môi và mắt.

Cô nhẹ nhàng nhưng cương quyết đẩy tôi ra, nhưng rồi bảo: “Em sẽ là của anh trong khách sạn ở Thorgate. Em yêu cầu anh, trong lúc này, không được chạm vào em. Tốt nhất là theo cách đó. “

Đối với một đàn ông trung niên, độc thân, tình yêu dâng hiến là một món quà người ta không còn hy vọng nữa; một phép màu có quyền áp đặt các điều kiện. Tôi nhớ lại cái thời bồng bột của mình ở Popayán và một cô gái người Texas, sáng tươi và mảnh mai như Ulrikke, đã từ chối trao tôi tình yêu của cô.

Tôi đã không mắc vào sai lầm hỏi cô rằng cô có yêu tôi hay không. Tôi nhận ra tôi chẳng phải là người đầu tiên, và sẽ không phải là người cuối cùng. Cuộc phiêu lưu đó, có lẽ là cuối cùng đối với tôi, sẽ là một trong số nhiều cuộc phiêu lưu đối với người đồ đệ quả quyết và rực rỡ này của Ibsen.

Chúng tôi đi tiếp, tay trong tay.

“Tất cả những điều này giống như một giấc mơ,” tôi nói, “và tôi không bao giờ mơ.”

“Giống như ông vua đó,” Ulrikke trả lời, “người không bao giờ nằm mơ cho đến khi một thầy phù thủy làm cho ông ấy ngủ say trong một cái chuồng lợn.”

Rồi cô nói thêm: “Ssh! Một con chim sắp hót kìa.”

Chỉ trong giây lát chúng tôi đã nghe tiếng chim hót.

“Ở những vùng đất này,” tôi nói, “người ta nghĩ rằng một người sắp chết có thể nhìn thấy tương lai.”

“Và em sắp chết,” cô nói.

Tôi nhìn vào cô, choáng váng.

“Mình sẽ đi cắt đường qua rừng,” tôi giục cô.

“Chúng ta sẽ đến Thorgate sớm hơn.”

“Rừng nguy hiểm,” cô đáp. Chúng tôi tiếp tục băng qua đồng hoang.

“Tôi ước khoảnh khắc này kéo dài mãi mãi,” tôi lẩm bẩm.

“Mãi mãi là một lời mà con người không được phép nói lên,” Ulrikke tuyên bố một cách dứt khoát, và sau đó, để làm dịu lời lẽ của mình, cô yêu cầu tôi đọc lại cho cô tên của tôi, mà lúc trước cô nghe chưa rõ lắm.

“Javier Otárola,” tôi nói.

Cô đã cố gắng lặp lại, nhưng không thể. Tôi cũng như thế, không lặp lại được Ulrikke.

“Em sẽ gọi anh là Sigurd,” cô nói với một nụ cười.

“Và nếu tôi là Sigurd,” tôi đáp, “thì em sẽ là Brunhild.”

Bước chân của cô chậm lại. “Em có biết bản trường ca đó không?” Tôi hỏi. “Tất nhiên,” cô đáp. “Câu chuyện bi thảm mà người Đức làm hỏng với kẻ mới phất Nibelungen của họ.”

Tôi không muốn tranh luận, nên tôi đáp: “Brunhild, em đang bước như thể em muốn một thanh kiếm nằm giữa trên giường của chúng ta.”

Chúng tôi bất ngờ đã ở trước khách sạn. Tôi không ngạc nhiên khi thấy rằng nó, giống như chỗ chúng tôi rời đi, được gọi là Nhà trọ Phương Bắc.

Từ trên cầu thang, Ulrikke gọi xuống tôi: “Anh có nghe thấy tiếng sói không? Không có sói ở Anh nữa. Nhanh lên.”

Khi tôi đi lên cầu thang, tôi để ý rằng các bức tường được dán giấy màu đỏ sẫm, theo phong cách của William Morris, với những chim và trái cây đan xen. Ulrikke đã vào phòng trước. Căn phòng tối có trần nhà thấp, nhô ra. Chiếc giường mong đợi được nhân đôi trong một tấm gương mơ hồ, và tấm gỗ gụ sáng bóng của nó khiến tôi liên tưởng đến tấm gương trong Kinh thánh. Ulrikke đã cởi quần áo. Cô ấy gọi tôi bằng tên thật của tôi, Javier. Tôi cảm thấy rằng tuyết đang rơi nặng hơn. Bây giờ không còn đồ đạc, không còn gương nữa. Không có thanh kiếm nào giữa chúng tôi. Như cát, thời gian lọt qua sàng. Xưa xa trong ánh lờ mờ tình yêu tuôn chảy, lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng, tôi sở hữu hình ảnh của Ulrikke.

Nguyễn Chí Hoan, dịch qua bản tiếng Anh của Andrew Hurley

Nguồn Văn nghệ số 47/2021


Có thể bạn quan tâm