April 19, 2024, 8:25 pm

Từ điểm nhìn 2022, tìm về 11 chân dung văn hoá lớn trên hành trình lịch sử…

Từ Xuân 2022, ngược dòng lịch sử chẵn hai thế kỷ là năm Kỷ niệm 200 năm sinh nhà thơ yêu nước lớn Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888), người vừa được UNESCO đưa vào Danh sách những Danh nhân văn hóa cùng được thế giới tôn vinh vào tháng 7 năm 2022 này, để nối dài những tên tuổi lớn của Việt Nam kể từ Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Chí Minh, Chu Văn An..

Nói Nguyễn Đình Chiểu là nói tác giả truyện thơ Lục Vân Tiên có thể xem như một Truyện Kiều của người dân Nam Bộ, cùng Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc đứng ở hàng đầu nền thơ kháng chiến chống Pháp cuối thế kỷ XIX, và Ngư Tiều y thuật vấn đáp kết đọng tri thức và triết lý nhân sinh của dân tộc Việt trong hành trình lịch sử.

Cao Xuân Dục

Gắn kết với truyền thống và mở đầu thời hiện đại của văn hóa Việt, văn chương - học thuật Việt là nhà văn hóa lớn Cao Xuân Dục - ông nội của Giáo sư Cao Xuân Huy (1900-1983), với kỷ niệm 180 năm năm sinh (1842-1923). Sinh năm 1842 – hai năm sau ngày Phan Huy Chú, tác giả của Lịch triều hiến chương loại chí qua đời; và mất năm 1923 – thời Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh hết vai trò lịch sử của mình; với các công trình lớn về lịch sử, văn hóa, địa lý, pháp luật, giáo dục như Quốc triều tiền biên toát yếu, Quốc triều luật lệ toát yếu, Đại Nam nhất thống chí, Quốc triều hương khoa lục, Quốc triều khoa bảng lục… tôi muốn nhìn Cao Xuân Dục trong sự tiếp tục một truyền thống học thuật có chiều dài cùng đồng hành với lịch sử thơ văn nhiều trăm năm, kể từ Lê Văn Hưu, Ngô Sỹ Liên… đến Lê Quý Đôn, Phan Huy Chú. Và nối dài về sau – đến hai thập niên mở đầu thế kỷ XX là một danh sách nhiều tên tuổi lớn làm nên gương mặt hiện đại của khoa nghiên cứu – lý luận – phê bình văn hóa – văn chương – học thuật dân tộc, như Nguyễn Bá Học, Nguyễn Đỗ Mục, Phan Kế Bính, Trần Trọng Kim, Phan Khôi, Bùi Kỷ, Nguyễn Văn Tố, Nguyễn Văn Ngọc, Lê Thước, Phạm Quỳnh…

 

Nguyễn Văn Vĩnh

Chính thức mở đầu thời hiện đại là một tên tuổi lớn: Nguyễn Văn Vĩnh – có biệt danh là Tân Nam Tử, trong bộ tứ “Vĩnh-Quỳnh-Tố-Tốn”, đến 2022 là chẵn 140 năm năm sinh (1882-1936). Nguyễn Văn Vĩnh là người rất sớm từ bỏ con đường quan chức bậc cao, để làm một doanh nhân văn hóa khai mở nền báo chí, xuất bản hiện đại, với những tờ báo lớn do ông chủ trì, như Đăng Cổ tùng báo, có tiền thân là Đại Nam đồng văn nhật báo (1907), và nhất là Đông Dương tạp chí (1913-1917); rồi tiếp đó vào nửa sau thập niên 1920 là Trung Bắc tân văn (từ 1917), L’Annam nouveau (1931) cùng Tủ sách Âu Tây tư tưởng. Là người mở đầu phong trào Truyền bá chữ Quốc ngữ, với câu nói nổi tiếng: “Nước Nam ta sau này hay hay dở cũng ở như chữ Quốc ngữ”. Là người sáng lập Hội dịch sách và Hội Trí Tri ở Hàng Quạt – năm 1907. Là người có những bản dịch đầu tiên về thơ ngụ ngôn của La Fontaine, về tiểu thuyết Những kẻ khốn nạn của Victor Hugo… để lại dấu ấn rất sâu trong nhiều thế hệ độc giả. Là người đã hai lần từ chối không nhận Huân chương Bắc đẩu bội tinh do chính quyền thuộc địa ban tặng. Là ông bố của hai nhà thơ mới nổi tiếng là Nguyễn Giang và Nguyễn Nhược Pháp… Mất ở tuổi 54 trong một cuộc săn tìm vàng bên Lào, ông được hưởng một đám tang rất to ở Hà Nội có rất đông những tên tuổi văn hóa lớn đưa tiễn như Phan Bội Châu, Trần Tuấn Khải, Doãn Kế Thiện, Lê Thước, Hoàng Ngọc Phách, Dương Bá Trạc, Bùi Kỷ…

 

Đặng Thai Mai

Lùi lại 20 năm sau là Kỷ niệm 120 năm sinh của hai nhà văn hóa lớn: Đặng Thai Mai (1902-1984) và Vũ Ngọc Phan (1902-1987). Cả hai trong tư chất học giả đã để lại hai bộ sách có giá trị kinh điển vào thời kỳ 1941-1945 tiền Cách mạng, có ý nghĩa kết thúc quá trình hiện đại hóa trong lịch sử văn chương – học thuật Việt Nam. Đó là Văn học khái luận – cuốn Lý luận văn học đầu tiên viết theo quan điểm macxít; và 3 Tập bộ sách Nhà văn hiện đại – dựng chân dung và sự nghiệp của 79 người viết thời hiện đại. Hai bộ sách không chỉ đặt nền móng mà còn có giá trị bền vững trong tiến trình văn học Việt Nam thế kỷ XX. Cùng với một khởi đầu rất sáng giá, cả hai tiếp tục có một sự nghiệp lớn cho đến khi qua đời trong nghiên cứu, dịch thuật, đào tạo nhiều thế hệ trò; cùng với những đóng góp trong vai trò tổ chức, lãnh đạo của các Hội nghề nghiệp – như Hội văn nghệ dân gian với Vũ Ngọc Phan, Liên hiệp các Hội văn học - nghệ thuật Việt Nam, và Viện Văn học với Đặng Thai Mai.

Lùi thêm 10 năm, đó là Kỷ niệm 110 năm sinh của Vũ Trọng Phụng (1912-1939), Nguyễn Huy Tưởng (1912-1960), Lưu Trọng Lư (1912-1991) – ba tên tuổi tiêu biểu góp công đầu vào tiến trình hiện đại hóa văn học Việt Nam trước 1945; trong đó trừ Vũ Trọng Phụng mất ở tuổi 27 vào năm 1939, còn Nguyễn Huy Tưởng và Lưu Trọng Lư có tiếp một chặng đường sáng tạo mới và lớn sau 1945 cho đến 1960 là Nguyễn Huy Tưởng, cho đến năm 1991 là Lưu Trọng Lư.

Vũ Trọng Phụng

Vũ Trọng Phụng, ngay lúc sinh thời đã được suy tôn là “Ông vua phóng sự đất Bắc” – người thư ký trung thành của thời đại, không bỏ qua, không để sót những mặt trái hoặc khuất tối của xã hội thực dân phong kiến như trong Làm đĩ, Lục xì, Cạm bẫy người, Kỹ nghệ lấy Tây, Cơm thầy cơm cô… Còn hơn thế, với hai tiểu thuyết Giông tố Số đỏ, tên tuổi Vũ Trọng Phụng hiển nhiên trở nên bất hủ với những chân dung người vô cùng sắc cạnh, không chỉ có ý nghĩa tố cáo xã hội đương thời mà còn bao quát được những thói tệ muôn thuở trong cõi nhân sinh; với các chân dung thực sự là bất tử, không phải của một thời mà là muôn đời như Xuân tóc đỏ - một chân dung có thể sánh với A.Q của Lỗ Tấn, Chí Phèo của Nam Cao. Và cùng với Xuân – để làm nên một cộng đồng “ngưu tầm ngưu, mã tầm mã”, còn là bà Phó Đoan, ông Týpphờnờ (Tôi yêu phụ nữ), cụ Cố Hồng – bố đẻ nhà trí thức Văn Minh, và cậu quý tử “Em chã!”…

Sống một cuộc đời túng nghèo, rất chật vật trong mưu sinh, lại bị bệnh lao – một trong tứ chứng nan y, thế mà có năm như năm 1936, Vũ cho in cùng lúc trên báo 3 tiểu thuyết lớn; và chỉ 8 năm viết, nếu tính từ vở kịch mở đầu: Không một tiếng vang, năm 1931, ở tuổi 19 cho đến khi qua đời năm 1939, ở tuổi 27, Vũ Trọng Phụng đã để lại một gia tài đồ sộ đến thế. Một gia tài... cùng một cái án oan, chung quanh câu hỏi “Dâm hay không dâm?” kéo dài từ 1950 sau cuộc tranh luận văn nghệ ở Việt Bắc 1949 cho đến 1986, mới được giải tỏa.

 

Nguyễn Huy Tưởng

Nguyễn Huy Tưởng – người từ năm 1930, ở tuổi 18, trong nhật ký ghi ngày 19/12/1930 có đoạn: “Phận sự một người tầm thường như tôi muốn tỏ lòng yêu nước thì chỉ có việc viết văn Quốc ngữ mà thôi”; đến năm 1942 đã có một sáng tác đầu tay có ý nghĩa một tượng đài – đó là kịch Vũ Như Tô. Một vở kịch, với nhân vật chính là một Kiến trúc sư đam mê, đắm đuối với nghề, dám dấn thân đến xả thân cho nghề, trong câu nói bất hủ: “Đời ta không quý bằng Cửu Trùng đài”; với người bạn tri kỷ là cung nữ Đan Thiềm hết mình trong lời khuyên Vũ Như Tô hãy xây cho được một công trình kiến trúc tầm cỡ đem lại vinh quang cho đất nước; và với mối băn khoăn hoặc phân vân của chính tác giả kéo dài cho đến cuối đời: “Chẳng biết Vũ Như Tô phải hay những kẻ giết Vũ Như Tô phải? Cầm bút chẳng qua cùng một bệnh với Đan Thiềm!”. Tất cả hội lại với nhau đã nâng Vũ Như Tô lên tầm một vở kịch lớn của thế kỷ XX. Ngót 20 năm sau, kể từ Vũ Như Tô là bộ tiểu thuyết Sống mãi với thủ đô, chỉ riêng Tập I ôm chứa dung lượng sống chỉ trong.. ba ngày đầu cuộc chiến trên khắp các phố, phường Hà Nội đã cần đến hơn 600 trang; với biết bao là cảnh huống, là tâm trạng, là tính cách, là số phận của nhiều lớp người. Giữa 20 năm đó là sự ra đời liên tục của những tiểu thuyết Đêm hội Long Trì, kịch Bắc Sơn, kịch Những người ở lại, Ký sự Cao Lạng, tiểu thuyết Truyện anh Lục, tùy bút Một ngày chủ nhật, kịch phim Lũy Hoa… cùng với một chùm truyện lịch sử viết cho thiếu nhi rất đặc sắc, mà mỗi tác phẩm là một gửi gắm, một nhe nhắm lớn sao cho đạt được cả hai chiều rộng và sâu những vấn đề lớn của thời cuộc, ở một người viết không lúc nào không mơ ước một cái đích xa cho nghệ thuật tựa như Chiến tranh và hòa bình của L.Tônxtôi, khiến cho bạn văn thân thiết Nguyên Hồng từng gắn thêm cho ông biệt danh là “Ông Tônxtôi Việt Nam”. Đó là chưa kể hàng nghìn trang nhật ký ông liên tục viết từ 1930 đến 1960 may mắn được vợ là bà Trịnh Thị Uyên cất giữ cẩn thận suốt hơn 50 năm sau khi nhà văn qua đời, cho đến năm 2016, là năm được Nhà xuất bản Kim Đồng ấn hành trọn bộ gồm 3 Tập; 1418 trang khổ 16 x 24cm.

Lưu Trọng Lư

Người thứ ba: Lưu Trọng Lư là một chân dung đa tài, nhiều nhà trong một nhà. Trước hết là người khởi đầu và là kiện tướng của phong trào Thơ mới; đồng thời là một người viết văn xuôi chuyên cần không kém thua thơ một chút nào. Sau 1945 chuyển sang hoạt động sân khấu, trong tư cách người sáng tác hai kịch bản cải lương, hai vở kịch nói, và là nhà lãnh đạo cao nhất của Hội nghệ sĩ Sân khấu, kế sau Thế Lữ.

Ở lĩnh vực nào, Lưu Trọng Lư cũng để lại những dấu ấn đặc sắc. Với Thơ mới đó là những đóng góp cả về sáng tác và về lý luận, hăng hái đến nỗi khiến cho Lưu đã có lần bị một ông Nghè dọa… chém! Theo chọn lựa của Hoài Thanh trong Thi nhân Việt Nam, Lưu Trọng Lư cùng Huy Cận là hai tác giả được chọn 11 bài, chỉ đứng sau Xuân Diệu – 15 bài; và đứng trên hơn 40 người khác; trong đó bài Tiếng thu chỉ có 9 câu 45 chữ với hình ảnh “Con nai vàng ngơ ngác/ Đạp trên là vàng khô” như một biểu tượng đặc trưng cho Lưu Trọng Lư nói riêng và Thơ mới nói chung. Với văn xuôi – đó là tiểu thuyết Người sơn nhân (1933) gây nên những tranh luận với các ý kiến trái ngược giữa Phan Khôi và Vũ Ngọc Phan, cùng 13 cuốn khác để đến với Chiếc cáng xanh Khói lam chiều (1941) chứng tỏ một sức viết rất lực lưỡng. Sau 1945 – là truyện vừa Truyện Cô Nhụy (1982), cùng hai hồi ký: Mùa thu lớn (1978) và Nửa đêm sực tỉnh (1989) ra mắt ở tuổi 77 hai năm trước khi qua đời. Đây là thiên hồi ký thuộc diện đặc sắc trong số các hồi ký của giới nhà văn Việt Nam, tính cho đến thời điểm nó ra đời, bởi nó có một phụ đề là: Nhớ lại những cuộc tình. Khỏi phải nói, đó là một hồi ký rất phù hợp, hoặc rất trung thành, rất trúng với một kiện tướng của Thơ mới, với hai đặc trưng là Tình Mộng. Nói cách khác một hồi ký rất nặng về đời tư, về những chuyện riêng tư, nhất là chuyện tình, với hai mối tình, nó là nội dung hiếm hoặc không có trong không gian tất cả các hồi ký ra đời trong thế kỷ XX, với một bên là hồi ký cách mạng của các chiến sĩ cộng sản, và một bên là hồi ký nghề nghiệp, chỉ với các kinh nghiệm viết như của Nguyễn Công Hoan, Nguyên Hồng, và cả Tô Hoài…

Hoàng Cầm

Danh sách cuối cùng ở tuổi chẵn 100 năm sinh – đó là hai nhà thơ: Hoàng Cầm (1922-2010), Vũ Cao (1922-2007) và nhà tiểu thuyết Chu Văn (1922-1997). Cả ba đều là những gương mặt tiêu biểu trong thành tựu của văn học sau 1945.

Hoàng Cầm – người đã có mặt trên đàn văn trước 1945, với sáng tạo đáng nhớ là kịch thơ Kiều Loan; cùng một sự nghiệp viết có chiều dài và sức vóc lớn sau 1945, với khởi đầu rất ấn tượng và có sức quảng bá rộng là Bên kia sông Đuống có dáng “nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ”, rồi Lá diêu bông ảo diệu trong tâm tưởng nhiều thế hệ bạn đọc trẻ. Và bao trùm là một hơi thơ rất đậm hồn Kinh Bắc, như một điểm tựa tinh thần lớn, có lẽ nhờ thế mà Hoàng Cầm vượt qua được không ít truân chuyên trong nghề - để vào 20 năm cuối đời là sự xuất hiện mới, hoặc xuất hiện trở lại của những Men đá vàng (1989), Mưa Thuận Thành (1991), Lá diêu bông (1993), Bên kia Sông Đuống (1993), Về Kinh Bắc (1994), 99 tình khúc (1995), và kịch thơ Kiều Loan (1995).

 

      Vũ Cao                                                                Chu Văn

Có khác với Hoàng Cầm, Vũ Cao sớm thuộc đội ngũ nhà văn mặc áo lính, và sớm có địa chỉ nghề nghiệp ở 4 Lý Nam Đế - trụ sở Tạp chí Văn nghệ quân đội; người cũng có một sự nghiệp thơ lớn, nhưng chỉ với riêng bài Núi Đôi đủ làm nên thương hiệu Vũ Cao: “Núi vẫn đôi mà anh mất Em (…) Anh đi bộ đội sao trên mũ/ Mãi mãi là sao sáng dẫn đường/ Em sẽ là hoa trên đỉnh núi/ Bốn mùa thơm mãi cánh hoa thơm”…

Chu Văn – định hình một gương mặt tiểu thuyết về chính cuộc sống mới đang diễn ra mà không cần một khoảng lùi ngắn hoặc dài nào. Đó là một cây bút văn xuôi với nhiều tập truyện ngắn và tiểu thuyết, trong đó ở đỉnh cao là Bão biển (1969). Một tiểu thuyết xứng với sự chờ đợi của công chúng, có bề dày 2 Tập, hơn 800 trang. Một tiểu thuyết viết về chính hiện thực đang diễn ra ở một vùng nông thôn công giáo ngay sau chiến tranh đang đi vào những thử nghiệm đầu tiên của cao trào hợp tác hóa với chằng chịt, chồng chéo những mâu thuẫn, những “xung đột” (tên một tiểu thuyết có cùng đề tài của Nguyễn Khải trước đó) trong mọi cộng đồng lớn nhỏ và trong mọi số phận riêng tư… Một tiểu thuyết thuộc trong số không nhiều tiểu thuyết đạt một chiều sâu đáng kể trong thâm canh vào một vùng đất mới – hoặc đất dữ, với tất cả những gì cấu thành màu sắc riêng của nó, cũng đồng thời là hiện thực nông thôn Việt Nam trong một chuyển động lớn lao của lịch sử.

Trở lên, qua độ lùi và trên hành trình lịch sử chẵn 200 năm, tôi muốn tìm đến một Danh sách những tên tuổi đáng nhớ, đáng tri ân trong giòng chảy văn hóa Việt, văn chương - học thuật Việt nhân mở đầu năm Nhâm Dần - 2022, sau hơn 2 năm đại dịch làm chao đảo cả thế giới; và Việt Nam trong đồng tâm nhất trí của khối đoàn kết toàn dân đang dần dần từng bước trở lại cuộc sống bình thường mới, với quá nhiều, cực kỳ nhiều thay đổi trong phương thức sống, lao động, suy nghĩ và các mối quan hệ cá nhân, gia đình, cộng đồng, xã hội…

Nguồn Văn nghệ số 10/2022

   

Có thể bạn quan tâm