April 20, 2024, 10:37 pm

Từ chợ Rồng đến ngõ Văn Nhân

 

Nam Định là thành phố có tuổi hơn 750 năm, từ thời vương triều nhà Trần chọn nơi đây làm hành lang kinh đô, lấy tên phủ Thiên Trường. Đến triều Nguyễn, đời vua Minh Mạng chính thức lấy tên thành phố là Nam Định. Nam Định ngày ấy có Trường Thi và Văn Miếu. Trong một bài thơ, Tú Xương viết:“Nhà nước ba năm mở một khoa/ Trường Nam thi lẫn với trường Hà”.Trường Hà ở đây là Hà Nội, còn trường Nam là Nam Định. Dưới triều Nguyễn, cứ 3 năm triều đình lại mở khóa thi ở Nam Định và các tỉnh có Trường Thi, giành cho mọi đối tượng, người thi đỗ được gọi là Cử nhân, năm sau sẽ lên Quốc Tử giám ở kinh đô Thăng Long để thi Hội và thi Ðình. Riêng Trường Thi Nam Định có thi Hương và thi Hội. Người đậu khóa thi Hội được gọi là Thám hoa, đậu khóa thi Ðình được gọi là Tiến sĩ. Ngõ Văn Nhân có tên cùng với sự ra đời của Trường Thi.

Vào dịp thi Hương, thi Hội, những nho sinh áo the khăn xếp từ khắp nơi trong vùng tụ về. Họ làm lều tạm la liệt trên những thảm cỏ ven trường. Tối đến thì tụ bạ dắt díu đi trên đường Trần Hưng Đạo, rẽ vào cái ngõ lớn, cách chợ Rồng vài trăm bước chân. Ngõ này có rất nhiều hàng cơm, hàng cháo, hàng xôi xíu, bánh gai, bánh phu thê. Ăn xong, những hàn sĩ thì quay về lều ngủ. Người khá giả thuê nhà trọ ngay trong ngõ ở cho đến hết kì thi. Ngõ được mang tên Văn Nhân là có nguồn cơn như vậy. Dân gian gọi nhiều thành tên. Cách ngõ Văn Nhân hai con phố cũng có một cái ngõ được hình thành theo cách ấy: ngõ Phán Chương. Phán Chương là tên một nhà tư sản ngân hàng lớn nhất ở Nam Định thời Pháp thuộc, ông là phụ thân của nhà thơ Trần Dần. Ông Phán Chương rất giầu nhưng có tư tưởng dân tộc, thân dân. Trong khuôn viên nhà mình ông cho xây hẳn một ngôi chùa thờ Phật, rước sư về nuôi, đồng thời là nơi tá túc của những người khó khăn cơ nhỡ. Dịp lễ, tết ông thường đón rất đông người già và trẻ con đến chùa để ông mừng tuổi. Sau này khi gia đình ông đã chuyển hết về thủ đô, nhà cửa cũng bị chiến tranh tàn phá, chỉ ngôi mộ người vợ, mẫu thân của nhà thơ Trần Dần còn ngự trong vườn, vì nhớ ơn gia đình này mà không một người dân nào xâm phạm, lấn chiếm dù chỉ một tấc đất. Không những thế họ còn gom tiền của xây nên một ngôi miếu trên nền ngôi chùa cũ để thờ hai ông bà. Cái ngõ vào nhà ông bà người ta cứ gọi ngõ Phán Chương, lâu dần hóa quen, thành tên chính thức, có gắn biển hẳn hoi. Nhiều năm rồi như thế và hôm nay vẫn thế.

Cuối thế kỷ 19, nhà tư bản từ Pháp sang đây ngắm phong thủy thành phố ngự nơi trung tâm đồng bằng Bắc bộ, ông ta quyết định xây dựng ở đây một nhà máy dệt lớn nhất Đông Dương. Loại trừ những chuyện bị bóc lột thì cái mà người Nam Định nhận được từ nhà máy là sự tiếp cận với văn hóa công nghiệp và văn minh thành thị. Năm 1954, người Pháp rút về nước, nhà máy Dệt được ta tiếp nhận và suốt những năm dài thời bao cấp, trong chiến tranh cũng như trong hòa bình, nó đã góp phần quan trọng nuôi sống thành phố, cung cấp nguồn hàng dệt may cho cả nước. Người ta đã tính được rằng, cứ ba gia đình ở thành phố Nam Định thì có một người công nhân dệt. Đấy là chưa kể những cơ sở ăn theo như nhà máy tơ, các công ty may, trường trung cấp dệt may và hàng chục làng nghề dệt may thủ công nữa. Bước sang thời kinh tế thị trường, phải chấp nhận cạnh tranh với nhiều nhà máy dệt khác trong nước và khu vực có sự tiến bộ về công nghệ, nhà máy liên hợp Dệt Nam Định đã dần phải thu hẹp lại. Thành phố không ồn ào sôi động như xưa.

Thời xưa, nếu như Hà Nội xưa có 36 phố phường thì Nam Định cũng có ngần ấy phố cổ: Hàng Vàng, Hàng Bát, Hàng Kẹo, Hàng Mâm, Hàng Tiện, Hàng Nâu, Hàng Thao, Hàng Ghế, Hàng Sắt, Hàng Đồng, Hàng Vải Màn, Hàng Rượu, Hàng Sũ v.v... Hiện nay, một số phố không còn giữ lại được tên cổ và mỗi phố không còn buôn bán chuyên một mặt hàng truyền thống nhưng cảnh xưa người cũ thì hình như vẫn còn phảng phất, thấp thoáng đâu đây! 

Chợ Rồng có tuổi đời tương đương với chợ Đồng Xuân (Hà Nội), chợ Sắt (Hải Phòng). Chợ được xây dựng năm 1922 do kỹ sư người Pháp thiết kế. Chợ ngự nơi trung tâm thành phố, người mua kẻ bán rất thuận tiện. Tất cả những gì phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt của con người hầu như đều có ở đây. Chợ còn là đầu mối cung cấp nguồn hàng cho tất cả các hệ thống chợ huyện, bách hóa cấp thị trấn, xã, thôn trong tỉnh. Nhưng nếu chợ Rồng chỉ có chức năng như thế, ắt nó sẽ lẫn với hàng trăm hàng ngàn cái chợ của nhiều thành phố, thị xã khác. Chợ Rồng trở nên nổi tiếng, thành một biểu tượng của thành phố Nam Định là còn bởi nó gắn với rất nhiều cuộc đời của những văn nhân, nghệ sĩ.

Cách chợ Rồng và ngõ Văn Nhân một quãng là phố Hàng Nâu, nơi có ngôi nhà cổ bằng gỗ của nhà thơ Tú Xương. Sinh thời ông Tú thường ghé phố Hàng Thao để hát ả đào. Gặp gỡ bàn bè cũng ở đấy. Những câu thơ, có thể nói hay nhất viết về tình bạn, tình yêu được ông Tú sáng tác theo nguồn cảm hứng từ những cuộc gặp gỡ ở phố này, như Áo bông che bạn, Đi hát mất ô... Chuyện thi cử với Tú Xương giống như là nghiệp chướng. Ông Tú học hành thông minh như trạng nhưng ba lần mũ áo đi thi đều trượt. Tuy vậy, mỗi lần từ phố Hàng Nâu đến Trường Thi, Tú Xương thường chọn lối đi qua ngõ Văn Nhân để lấy không khí văn chương. Mỗi lần như vậy bà Tú cũng nhét vào túi dết của ông mấy hào để ông chọn cái quán phở thật ngon ở ngõ này vào ăn, chứng tỏ cho đám sĩ tử biết, ông tuy thi cử trượt lên trượt xuống nhưng tư thế của ông không đến nỗi nào. Ông Tú hay vào chợ Rồng. Bài thơ Cô cáy chợ Rồng ông viết được khởi nguồn cảm hứng từ đây. Tú Xương đến chợ còn vì cái nghĩa tào khang nữa. Người vợ của ông, tuy con nhà gia giáo, chữ nho đọc thông viết thạo, nhưng chỉ vì trót yêu và quyết lấy một chàng thi sĩ có máu lãng tử, ngoài cái tài thơ phú, còn lại làm việc gì cũng dở nên bà phải chịu cảnh lam lũ “Quanh năm buôn bán ở mom sông/ Nuôi đủ năm con với một chồng…”. Nói thế không có nghĩa là lúc nào bà Tú cũng chỉ ngồi ở mom sông, cạnh bền đò Chè mà buôn bán. Chỗ ấy chỉ có thể mua đi bán lại mớ tôm mẻ tép, rọ cua giỏ rạm, còn khi mua cất được yến gạo nếp hương, bao gạo tám xoan thì phải đưa vào chợ Rồng bán cho các nhà giầu mới được giá! Tú Xương hay đến chợ để động viên bà, giúp bà những việc lặt vặt, nịnh khéo để bà mua cho chai rượu nếp cắm tăm nữa.

Đi hết ngõ Văn Nhân sẽ gặp phố Bến Ngự, có nhà số 7 được xếp hạng di tích lịch sử quốc gia, bởi ngôi nhà cổ kính này từng là nơi hội tụ nhiều nhân vật trí thức nổi tiếng. Người xây dựng ngôi nhà là cụ Trần Doãn Đạt, phụ thân của Tam nguyênTrần Bích San, người đỗ đầu liên tiếp các khoa thi Hương - thi Hội - thi Đình, được mệnh danh là Tam nguyên Vỵ Xuyên. Mặc dù Trần Bích San đỗ đạt cao, làm quan to trong triều đình Tự Đức, nhưng cụ Trần Doãn Đạt vẫn lo con vì thành đạt mà dễ sinh lòng kiêu bạc, cụ đã làm thơ dặn con: Hữu thức phi nan, nan thức đáo/ Vô danh bất hoạn, hoạn danh phù (Để hiểu biết không khó, khó là phải biết đến nơi/ Không lo không có danh, chỉ lo danh hão). Khi nhắc đến Trần Bích San, thay vì bình luận, người ta thường đọc cặp câu đối do một tác giả khuyết danh viếng ông khi ông từ trần, khắc vào gỗ quý, hiện vẫn còn treo nơi từ đường: Nhất cử thành danh, thiên hạ hữu/ Tam nguyên liên trúng, quốc triều vô (Vừa thi đã đỗ, thiên hạ thường thấy/ Chiếm liền Tam nguyên, triều ta chưa có ai). Hoặc người ta nhắc đến hai câu thơ nổi tiếng Trần Bích San viết trong bài Tam quá Hải Vân quan: Văn phi sơn thủy vô kỳ khí/ Nhân bất phong sương vị lão tài (Văn không có sơn thuỷ thì không có khí lạ/ Người chưa dãi dầu sương gió thì chưa thể già dặn)

Ngôi nhà số 7 Bến Ngự còn có tên Cổ Mai Trang (Vườn hoa mai). Tại đây gia đình Trần Bích San có hẳn một vườn hoa mai với đủ loài mai quý từ khắp nơi sưu tầm về. Vẻ đẹp của hoa mai có khả năng mê dụ, quyến rũ tao nhân mặc khách. Những tên tuổi lớn của văn hóa nước nhà như Hoàng giáp Phạm Văn Nghị (thầy dậy Trần Bích San), Tam nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến (bạn đồng khoa với Trần Bích San), Tiến sĩ Vũ Phạm Khải (bạn vong niên với Trần Bích San)... mỗi năm không dưới một lần qua đây. Gia tộc họ Trần này lại thông gia với gia tộc họ Hoàng danh giá trong huyện Ý Yên. Họ Hoàng có những nhân vật văn học tiếng tăm như nhà văn Chu Thiên, tác giả tiểu thuyết Bóng nước Hồ Gươm nổi tiếng; nhà thơ Nhượng Tống, người đã chuyển ngữ thành công các tác phẩm Trang Tử, Ly tao, Tây sương ký từ tiếng Hán sang tiếng Việt cũng thường đến đây hội ngộ. Thi sĩ Vũ Hoàng Chương siêng năng có mặt ở địa chỉ này bởi ông yêu hoa mai đến độ si mê. Nhạc sĩ Văn Cao, sau thời gian dài dâu bể, năm 1989 ông cùng vợ trở về thăm quê Nam Định. Trong nhiều địa chỉ mà vợ chồng ông ghé thăm không thể bỏ qua chợ Rồng và ngõ Văn Nhân. Ngày cuối cùng Văn Cao đến Cổ Mai Trang của Trần Bích San. Đến đây ông ngắm nhìn cảnh vật với vẻ man mát buồn, rồi hỏi người cán bộ văn hóa phường: “Cây bạch đào còn không?”. Hóa ra Văn Cao từng đọc bài thơ ứng tác của Nguyễn Bính nói về cây Bạch Đào trong Cổ Mai Trang. Người ta trả lời rằng, không còn. Văn Cao tỏ ra vô cùng tiếc nuối, nói với gia chủ: “Bạch đào là cây hoa quý, nếu có thể sưu tầm lại được nó, trồng vào đúng chỗ cây bạch đào xưa, sẽ rất ý nghĩa…”.

Nơi ngõ Văn Nhân tiếp giáp với phố Trần Hưng Đạo là khuôn viên nhà thờ Đức Mẹ Vô Nhiễm, gọi là nhà thờ Lớn, phía nam nối với sân nhà thờ là phố Hàng Cau, nơi sinh nhà văn Nguyên Hồng. Cha mẹ giữa đường đứt gánh, Nguyên Hồng có những năm tháng tuổi thơ lam lũ, nhọc nhằn. Gia đình ông theo đạo Thiên Chúa. Những khi mắc mớ với người bố dượng, bị đánh đòn khốc liệt, Nguyễn Hồng thường chọn ngôi nhà thờ này làm nơi nương náu tinh thần.

 Nam Cao cũng theo đạo Thiên Chúa. Gia đình ông ở làng Đại Hoàng, cách thành phố Nam Định gần chục cây số. Làng Đại Hoàng có nghề trồng dâu nuôi tằm, dệt vải truyền thống, quan hệ mật thiết với nhà máy Dệt Nam Định. Tuổi thơ Nam Cao theo cha xuống Nam Định học trường Thành Chung, ngôi trường được thiết lập ngay trên nền đất Trường Thi xưa. Cha con ông ở số nhà 42c, phố Hàng Đàn. Nhà văn Tô Hoài có lần kể rằng một lần về chơi với Nam Cao, ông đã được bạn mời đi đến nhà thờ lớn dự lễ Phục sinh. Nam Cao yêu thành phố này nên trước ngày đi tham gia kháng chiến, ông dặn vợ, sau này hết chiến tranh mà ông không về thì bà nên chuyển xuống Nam Định ở cho các các con có điều kiện học hành, thi thố. Bà Trần Thị Sen đã thực hiện đúng như ước nguyện của chồng, hết chiến tranh chống Pháp, bà đã chuyển cả nhà xuống ở trên một căn gác hai ngôi nhà cổ trên đường Lê Hồng Phong, Nam Định. Ba người con của ông bà đều theo ngành dệt.

Bên kia cổng chợ Rồng là phố Hàng Đồng, nơi có ngôi nhà của người nhạc sĩ tài hoa bạc mệnh Đặng Thế Phong. Đặng Thế Phong cũng theo đạo Thiên Chúa. Mới 24 tuổi ông đã về với cát bụi nhưng vẫn kịp để lại cho nhân gian ba nhạc phẩm, là Đêm thu, Giọt mưa thuCon thuyền không bến sống mãi với thời gian

Nhà văn Nguyễn Công Hoan có một thời gian dài về dạy học trường Thành Chung. Nhà văn ở trên căn gác xép của căn nhà có tên Bùi Chu thuộc một con phố nhỏ ngay sát phía đông nam chợ Rồng. Hàng ngày từ trường về, ông vẫn ngồi trên căn gác này sáng tác văn chương trong tiếng lao xao mua bán dưới chợ. Rồi một hôm có người nông dân rách rưới từ Ninh Bình ra, tìm đến căn gác xép ấy kể cho Nguyễn Công Hoan nghe chuyện cuộc đời cùng cực của mình, đó là chất liệu để nhà văn sáng tác tiểu thuyết Bước đường cùng

Nguyễn Bính càng có nhiều kỷ niệm sâu sắc với Chợ Rồng và ngõ Văn Nhân. Sau những năm tham gia kháng chiến ở Nam Bộ, Nguyễn Bính tập kết ra Bắc, hội tụ bạn bè, lập ra báo Trăm Hoa. Tờ báo bán rất chạy, nhưng chỉ được 4 số là phải đình bản vì có liên quan đến Nhân văn Giai phẩm. Nguyễn Bính trở về quê với hai bàn tay trắng và một tâm trạng tan nát, u hoài. Một lần một mình vào chợ, Nguyễn Bính nhìn thấy một thiếu nữ không còn trẻ, cũng không xinh đẹp, nhưng ông đặc biệt chú ý đến nàng bởi nàng đang đọc cuốn Lỡ bước sang ngang của ông. Hồi ấy, tập thơ này của Nguyễn Bính đang bị cấm. Trong tâm trạng cô đơn lạnh lẽo, ông đã bị cảm kích run rẩy xúc động khi nói chuyện với nàng. Cuối cùng ông đã cầu hôn nàng. Đó là bà Lai. Bà lấy ông, tôn thờ và cưu mang ông. Họ có với nhau một con trai. Song, hạnh phúc của họ cũng không kéo dài được bao lâu.

Chu Văn và Tào Mạt có môi trường công tác và tước vị khác nhau. Chu Văn, tác giả bộ tiểu thuyết Bão biển gây chấn động một thời. Ông nhiều năm giữ cương vị trưởng Ty Văn hóa. Còn Tào Mạt là quân nhân, thuộc Bộ Quốc phòng. Tuy là tác giả những vở kịch nổi tiếng như Anh lái xe và cô chống lầy, Đường về trận địa, bộ ba tác phẩm lịch sử Bài ca giữ nước và mang hàm tới đại tá, nhưng chưa bao giờ Tào Mạt có chức vụ gì ngoài cái danh nhà văn - kịch tác gia. Trong một chuyến đi thực tế ở Trường Sơn, hai ông đi cùng đoàn và trở nên thân thiết, tri âm tri ngộ. Vợ con Tào Mạt ở Nam Định, mỗi lần từ Hà Nội về ông không thể không đến thăm Chu Văn cho dù chỉ là để nhìn thấy nhau. Tào Mạt còn viết đơn xin gia nhập hội Văn học nghệ thuật Hà Nam Ninh để có lý do gần gũi với Chu Văn hơn. Tào Mạt viết lời bạt cho tiểu thuyết Giáp mặt của Chu Văn bằng thơ chữ Hán: Xuân lai đào lý mãn phương viên/ Chu lão văn chương nhật thậm duyên/ Thế cụ như kim ưng đối diện/ Tảo thanh yếu hữu xuyết cương chiên. Tạm dịch: Vườn xuân ăm ắp mận chen đào/ Văn bác Chu Văn vẫn cứ hào/ Cuộc thế ngày nay còn “Giáp mặt”/ Phải dùng roi sắt quất cho đau. Tào Mạt có một quan niệm đã thành lẽ sống của ông: đã làm quan thì không làm hề, đã làm hề thì không làm quan! Đôi khi trong lúc trà dư tửu hậu, Tào Mạt hay công kích Chu Văn là người ham chức tước. Thậm chí Tào Mạt làm hẳn một bài thơ chữ Hán “chế giễu” Chu Văn: Nhất thế vi văn bản ái nhàn/ Tha đà lưu thủy dữ thanh sơn/ Thảng như trách vọng nan hưu nhiệm/ Vô lại đương quyền tác lãnh quan. Tạm dịch: Cái kiếp nhà văn thích tự do/ Mải mê mây núi với sông hồ/ Ví bằng chửa được về hưu hẳn/ Đành chịu ôm đồm cái chức khô. Tuy giễu nhại thế, nhưng vào dịp đại hội Văn nghệ Hà Nam Ninh lần thứ ba, tháng 7 năm 1989, Chu Văn đã xin nghỉ chức Chủ tịch Hội, nhưng một vài người sợ ông nghỉ giả vờ, cho người lên diễn đàn “đánh” ông bằng những lời không dễ nghe thì Tào Mạt đứng dậy bước ra khỏi hội trường bưng mặt khóc tức tưởi, gặp ai ông cũng lặp đi lặp lại câu: “Em đánh anh, trò đánh thầy, còn luân thường đạo lý gì nữa, hả?”…

Dịp Đại hội nhà văn Việt Nam lần thứ năm, tháng 7 năm 1995, ở tỉnh Nam Hà khi ấy có Chu Văn, Đoàn Văn Cừ và tôi là hội viên. Bí thư Tỉnh ủy cho hẳn môt chiếc Toyota mới cóng chở chúng tôi đi. Tào Mạt trong quân đội nhưng vì là hội viên hội Văn học nghệ thuật tỉnh nên vẫn được mời về... Cái buổi chiều trước khi về Hà Nội, bốn chúng tôi đi dạo chợ Rồng. Lúc quay về chúng tôi vào quán phở Xuyến trong ngõ Văn Nhân. Quán phở Xuyến có món nạm bò để uống bia thì miễn chê. Chúng tôi ăn phở chỉ là một nhẽ. Cái nhẽ chính là thưởng ngoạn cái linh khí văn chương từ bao đời vọng về. Bữa ấy Chu Văn và Tào Mạt nói chuyện rất hay. Văn chương cổ kim đông tây thì hai ông xứng đáng là bậc thầy. Đoàn Văn Cừ, tác giả bài thơ Chợ tết nổi tiếng bị điếc đặc nên ông chỉ nhìn miệng hai đại gia nói mà gật gật đầu cười nhân hậu… Bầu không khí ấy sau này ít nhiều cũng bị phôi phai. Văn chương không còn là mối quan tâm nhiều như trước. Thế nhưng giờ đây tuy đã xa, mỗi khi nhớ về những kỷ niệm vui có, buồn có, tôi vẫn thầm cám ơn thành phố Nam Định, nơi cung cấp nguồn năng lượng cho tôi cầm bút cho đến hôm nay.

Nguồn Văn nghệ số 4+5+6/2019

                                                                          

        


Có thể bạn quan tâm