March 29, 2024, 1:14 pm

Thơ Nguyễn Trác

 

Cho đến nay, Nguyễn Trác đã xuất bản hơn mười tập thơ. Anh giữ nhịp khá đều với sự vận động của thơ ca nói chung. Hiện thực lớn của đất nước qua mỗi giai đoạn phát triển đều để lại trong thơ anh nhiều dấu ấn đặc biệt. Cùng với đó là sự vận động của tâm hồn anh qua nhiều trải nghiệm. Cách viết cũng có nhiều thay đổi nhằm bắt kịp những đổi thay của đời sống. Nhưng trước sau ta vẫn bắt gặp một Nguyễn Trác sâu đằm và đa cảm.   Tôi ngạc nhiên một cách thú vị khi nhận ra sự chững chạc của anh ngay từ những bài thơ đầu tay khi tác giả có mặt ở chiến trường. Tôi nói chững chạc vì so với thơ của cánh lính trẻ những năm đầu chống Mỹ còn nặng về kể, còn anh thì nghiêng về cảm. Ngạc nhiên hơn nữa, đây lại là thơ của một thầy giáo dạy toán. Trong bài thơ “Gửi một người bạn võng” viết năm 1973, có đoạn:

Gió núi về gió núi mênh mông

Võng rung rinh tôi biết anh thao thức

Ôi! Đất nước tháng năm đánh giặc

Mặt trăng lên từ phía những khu rừng.

“Mặt trăng lên từ phía những khu rừng” viết thế là sâu và gợi. Ưu điểm này càng về sau càng được tác giả phát huy một cách tối đa. Nguyễn Trác thường kết thúc bài thơ bằng những câu thơ có sức gợi như thế. Cũng viết về đề tài chiến tranh nhưng bài “Giải thích” lại lấy bối cảnh khá rộng và thời gian khá dài. Đây là bài thơ của một người nói về thế hệ mình:

Đó là những đứa trẻ sinh ra

Những năm 40, 41, 45…

Đất nước hai triệu người chết đói

Mây đen bay trên thế kỷ dữ dằn

 

Và chúng tôi lớn lên

Bên cạnh những xác chết và những người thương tật chiến tranh

Trong tiếng vang những ngọn sóng lớn

Mây đen bay trên Tổ quốc tím bầm

Đó là một thế hệ sẵn sàng xả thân vì Tổ quốc

Mười chín đôi mươi trời xanh goá bụa

Mười chín đôi mươi bàn ghế xuống đường

Mười chín đôi mươi già như lịch sử

Cảm hứng trở nên tung phá, khơi gợi nhiều chiều mà vẫn giữ được sự chân cảm. Cách viết tránh được kể lể, làm tăng tính khái quát, dào dạt nhưng không xô bồ, nồng nhiệt nhưng không rơi vào to tiếng. Ở đây, Nguyễn Trác đã có sự kết hợp rất nhuyễn giữa cảm và nghĩ. Tính triết lý càng về sau càng đậm. Cô đặc lại là ở cách sống. Cách sống trong chiến tranh chuyển sang cách sống trong thời bình. Mở đầu mang tính tự sự khép lại mang tính tuyên ngôn. Tuyên ngôn về tư cách của một thế hệ, đó là sự giải thích về tư cách một thế hệ, cũng là sự ứng xử phù hợp giữa quá khứ và tương lai. Là một thế hệ được tôi rèn qua chiến tranh, họ biết cách xác định trách nhiệm cho bản thân sao cho phù hợp với cuộc sống mới:

Chúng tôi biết rất rõ rằng

Cả thái độ chán chường

Lẫn hoài nghi cuộc sống

Có lẽ đều không hợp với tương lai

Không ai có quyền vòi vĩnh gì quá khứ.

Cũng giống như hầu hết các nhà thơ thuộc thế hệ mình, thơ Nguyễn Trác về sau mang nhiều yếu tố thế sự. Trước một cuộc sống còn ngổn ngang, chuyển đổi nhiều giá trị các nhà thơ không dấu nổi những nỗi niềm. Đó là chỗ giống nhau, chỗ khác nhau là Thơ Nguyễn Trác nhiều nỗi niềm (và nhiều nỗi niềm là phải) nhưng đó là một nỗi niềm của người trong cuộc, mừng và lo, băn khoăn và tin tưởng:

Thế giới ảo bên một đời sống thật

Đã khiến lòng ta thấy bất an

(liễu biếc)

 

Biết bao giờ thế nhân trọn vẹn

Đêm lạnh nhiều đâu phải vì sương

(Hướng dẫn viên du lịch hàng không)

 

Và mỹ phẩm dần dà có nhu cầu lớn hơn sách vở

(Bản tin truyền hình đêm)

Trước những hiện tượng xuống cấp về bậc trang giá trị, nhà thơ lên tiếng cảnh báo cần thiết cho sự bảo toàn đạo đức xã hội. Chối bỏ hoặc phê phán một chiều đều không thoả đáng. Vấn đề là làm sao đấu tranh để loại bỏ những cái tiêu cực, vun xới những cái tốt đẹp, cuộc đấu tranh này không chia tuyến như trong chiến tranh mà nó diễn ra ngay trong mỗi một con người. Nhà thơ nhận ra điều đó và chỉ cho mọi người tìm thấy sức đề kháng ngay trong bản thân mình.

Khi thế giới ngày càng phẳng

Và đời thực dựng hơn

Anh trở về bên cỏ

Lắng thầm thì tiếng cỏ xanh non

(Khi nhà cao Hà Nội bão hoà)

Trở về với cỏ là trở về với những gì thanh sạch nhất, là trở về với sự sống lành mạnh trong mỗi một con người. Cuộc sống tươi non nhưng đầy khoẻ khoắn, nó nhân danh hy vọng và tương lai:

Nhưng có lẽ trái tim anh vẫn thế

Sách vở như xưa dù biết lỗi thời

Bên bếp lửa chú gà vừa nở

Gại gại chiếc mỏ hồng lên vỏ trứng vỡ đôi

(Xưa ta gối đầu giường)

Nguyễn Trác thường có những câu thơ kết rất ý vị. Anh gợi mở để cho sự sống lên tiếng. Đó là cách nói của các nhà thơ phương Đông, tránh tận ngôn. Nhà thơ dựng lên một hình tượng và để hình tượng lên tiếng, đó chính là sự đa thanh trong biểu cảm.

Thái độ đối với tương lai đúng đắn như thế nào thì thái độ đối với quá khứ cũng cần đúng đắn như thế. Nguyễn Trác có nhiều lần trở lại lịch sử, lần nào cũng đem theo những tâm sự mới. Cách làm mới lại lịch sử là đem đến một cách nhìn mới, xuất phát từ chỗ đứng của hôm nay. “Trên bến Bồ Đề” là một bài thơ dài, nói về tâm trạng của Lê Lợi trước khi vào thành Đông Quan để lên ngôi.

Mai ta vào thành

Thuận thiên thừa vận

Đời ta chưa từng lên điện Kính Thiên

Bình sinh ngày ngày chỉ ham kinh sử

Đánh giặc vì không muốn làm tôi tớ

Chứ không màng phú quý công danh

Mặc dù vậy, việc lên ngôi vẫn là một tất yếu khách quan. Lê Lợi lên ngôi là yêu cầu của lịch sử. Còn việc ông ở ngôi thế nào lại là chuyện khác. Nguyễn Trác như tiên liệu trước những rủi ro, khi anh đặt bút viết những câu đầy gửi gắm:

Mặt trời dù chiếu sáng khắp nơi

Vẫn cứ có người còn trong bóng tối

Đức Vua ơi người có thấy chúng tôi

Vẫy vùng nhung y nên công đại định

Nhưng đại định phải là một phép cộng liên tục

Phải bắt đầu từ dân

Và đến mỗi người dân

Nhìn thấy dân, nhắc đến dân trong buổi lên ngôi của hoàng đế là một cách nhìn sâu sắc chứng tỏ sự già dặn của một bản lĩnh thơ. Cũng vậy, trong bài thơ “Một khúc ca cho Mỵ Châu”, tác giả có cách nhìn riêng về tấm bi kịch lịch sử. Tác giả không giống các nhà sử học phê phán một chiều sự lầm lạc của Mỵ Châu dẫn đến cái chết oan nghiệt của nàng. Ngược lại, tác giả để Mỵ Châu nhìn thấy sự lầm lạc của mình như một sự ngộ nhận của lịch sử:

Thiếp chết đi lòng còn ngơ ngác hỏi

Chàng là ai

Một người tình thuỷ chung

Một người tình gian dối

Hay chàng là con rối

Bước mù loà trên dây

Tất nhiên, đau đớn quá phải cất lên câu hỏi. Nhưng người ngơ ngác duy nhất trong tấn kịch được sắp sẵn này là Mỵ Châu, còn Trọng Thuỷ thì nó biết rất rõ nó là ai và phải làm gì? Sự ngơ ngác của Mỵ Châu không làm giảm tội cho nàng mà càng thấy sự thâm độc và bỉ ổi của kẻ thù lợi dụng tình yêu trinh bạch và ngây thơ của nàng? Trong tấn bi kịch này, tác giả có cái nhìn sâu hơn khi cho rằng, kẻ mắc tội với xã tắc không phải duy nhất có nàng, mà còn là sự ngây thơ của Vua cha. Tác giả có lý khi hạ bút

Sao An Dương Vương giết con mà không giết

Sự ngây thơ của chính mình?

Câu hỏi đau đớn của lịch sử. Riêng chỗ này thì nhà thơ khác với các nhà sử học. Một cách nhìn riêng như thế làm cho thơ của Nguyễn Trác có chiều sâu của sự chiêm nghiệm. Trong bài “Lưu dân” tác giả có cách nhìn bổ sung cho việc mở cõi. Huỳnh Văn Nghệ rất nổi tiếng với hai câu thơ: “Từ thuở mang gươm đi mở cõi, ngàn năm thương nhớ đất Thăng Long”. Nguyễn Trác viết tiếp:

Nhưng nếu chỉ mang gươm làm sao thành

Đất nước

Thành lý ngựa ô, đờn ca tài tử

Thành bánh tét, khăn rằn

Thành ruộng vườn thẳng cánh cò bay

Trong chiều sâu của sự cảm nhận, thơ Nguyễn Trác thường lấy cảm hứng ở những sự việc bình thường. Việc bình thường nhưng cảm xúc thì khác thường. Đó là nhờ ở khả năng phát hiện. Chính nhờ ở khả năng phát hiện mà thế giới trở nên luôn luôn mới. Thế giới được mới hoá vì tâm hồn nhà thơ luôn khắc khoải không yên. Đọc thơ Nguyễn Trác thấy rất rõ điều đó. Câu thơ rất giản dị nhưng ta thấy tâm hồn anh chấn động:

Đã bao lần anh đứng trú mưa

Mà quên cây đang ướt

(Đã bao lần anh đứng trú mưa)

Tiếng đàn tính dẫn mùa xuân ra suối

Rượu Tày thơm bếp lửa lứa đôi

(Đêm nghe hát Then ở Quỳnh Sơn)

Anh vẽ một tiếng gọi

Luôn vang trong lòng mình

(Mùa lá rụng)

Đó là những câu thơ không dễ viết nếu đời sống nội tâm không mạnh, đúng như tác giả đã tâm sự:

Cái vô tận của thế giới

Được thay thế bằng cái vô tận của tâm hồn

(Rồi bụi tre trong vườn bị chặt)

Như vậy thì, muốn đổi mới thơ trước hết phải đổi mới tâm hồn. Nhà thơ phải luôn luôn chống lại những cái cằn cỗi, ốm yếu từ trong bản thân mình. Đó phải chăng là tâm lý tự thoả mãn, tâm hồn nguội lạnh, không còn khát vọng nữa. Đó không chỉ là căn bệnh giết chết cảm xúc mà còn làm thui trột tài năng. Chống lại căn bệnh đó là chấp nhận một trận chiến ở ngay trong lòng mình.

Trong cái thời điện thoại ở bên

Vợ con ở bên không còn ly biệt

Cuộc đời hình như tới đích rồi

Những tủ bàn che khuất hết buồn vui

(Trong cái thời thừa công cụ để in)

Báo động về cuộc sống trưởng giả trong đời cũng chính là báo động về một sức ì trong thơ. Nguyễn Trác rất có ý thức giữ gìn sự ấm nóng của tâm hồn. Anh viết về “ Mẹ” rất cảm động:

Ở biên mầu trắng thành quen thuộc

Trắng của lau và mây trắng trên cao

Về quê thăm mẹ vừa qua ngõ

Giật mình tóc mẹ trắng khi nao

(Lau Trắng)

Không có thứ kĩ thuật nào thay thế được cái tình thật của nhà thơ. Và sự tìm tòi, cách tân trước hết là từ ngay trong tâm hồn mình. Sẵn cái tình ấy, anh toả ra đời sống, thì tự nhiên cuộc sống trở nên giầu có và hấp dẫn lạ thường. Nguyễn Trác có bài thơ “ Gió vẫn trên đường” viết về chị lao công quét rác và anh thương binh rất cảm động:

Tiếng chổi tre vẫn quét trên đường

Tiếng gậy tre vẫn gõ trên đường

Và tôi nghe gió vẫn trên đường

Thổi không đầu không cuối

Đúng! Nhà thơ muốn ca ngợi vẻ đẹp vĩnh cửu của những người biết hy sinh và dám hy sinh vì người khác. Đó là chân giá trị. Và đó cũng là thước đo phẩm giá một con người. Từ những con người bình dị ấy toả ra một thứ ánh sáng của sự lương thiện có sức soi dẫn và an ủi con ngừoi. Cái mới ở đây không phải từ cảnh từ người mà từ tình cảm của nhà thơ. Cái gì chạm được vào trái tim thì nó luôn luôn mới. Với một quan niệm như vậy, tôi đọc đi đọc lại không biết bao nhiêu lần bài thơ “Em giữa vườn cây” tác giả viết năm 1983 nhân chuyến đi thực tế ở nông trường cao su Đồng Nai. Nói đây là một bài thơ về lao động sản xuất cũng được, mà bảo đây là bài thơ tình chắc cũng không ai phản đối. Bài thơ cho tôi thấy sự sung mãn của nông trường, nhưng cái thực sự làm tôi xúc động đó là tình cảm của tác giả. Nhờ có cái tình ấy mà cảnh vật lung linh lên tất cả. Bài thơ viết rất nhuyễn. Bên cạnh sự tươi tốt của các hình tượng là sự đan quyện của thứ âm điệu có sức ám ảnh rất lạ. Đây là bài thơ rất tiêu biểu cho cách cảm của Nguyễn Trác. Vì bài thơ không dài và khổ nào cũng hay nên tôi xin chép nguyên văn ra đây để chúng ta cùng cảm nhận

 

Em giữa vườn cây

 

Em giữa vườn cây, cây giữa lô

Cao su đang lứa nhựa căng chờ

Tháng Ba hoa nở rừng thơm ngát

Ơ tiếng bờ chao hót ngẩn ngơ

 

Em giữa vườn cây, cây giữa sương

Bao la mầu đất đỏ nông trường

Những cành non mới vừa lai tháp

Theo mặt trời lên lặng lẽ hương

 

Em giữa vườn cây giữa bạn bè

Miền Đông bất khuất chiến khu D

Hai ta đi giữa mùa khai thác

Lá với cành xanh nghiêng xuống che.

Đồng Nai 1983

Hơn nửa thế kỷ cầm bút, Nguyễn Trác đã đi qua nhiều chặng đường thơ. Mỗi chặng đường là một sự ghi dấu những tìm tòi, sáng tạo của anh. Hồn hậu và say đắm, luôn luôn tự làm mới mình để đem đến chiều sâu cho thi cảm, đó là cống hiến của Nguyễn Trác vào nền thơ chung của chúng ta. Với một người luôn luôn “ mang nặng nỗi buồn trẻ thơ” như Nguyễn Trác, thì thế giới luôn là một thế giới mở đem đến sự bồi đắp không ngừng. Nhất định bạn đọc còn được đón nhận nhiều thi phẩm mới của anh khi hồn thơ đang đi vào độ chín.

Hà nội ngày 6/1.2022

Nguồn Văn nghệ số 8/2022


Có thể bạn quan tâm