Cho đến nay, Nguyễn Trác đã xuất bản hơn mười tập thơ. Anh giữ nhịp khá đều với sự vận động của thơ ca nói chung. Hiện thực lớn của đất nước qua mỗi giai đoạn phát triển đều để lại trong thơ anh nhiều dấu ấn đặc biệt. Cùng với đó là sự vận động của tâm hồn anh qua nhiều trải nghiệm. Cách viết cũng có nhiều thay đổi nhằm bắt kịp những đổi thay của đời sống. Nhưng trước sau ta vẫn bắt gặp một Nguyễn Trác sâu đằm và đa cảm. Tôi ngạc nhiên một cách thú vị khi nhận ra sự chững chạc của anh ngay từ những bài thơ đầu tay khi tác giả có mặt ở chiến trường. Tôi nói chững chạc vì so với thơ của cánh lính trẻ những năm đầu chống Mỹ còn nặng về kể, còn anh thì nghiêng về cảm. Ngạc nhiên hơn nữa, đây lại là thơ của một thầy giáo dạy toán. Trong bài thơ “Gửi một người bạn võng” viết năm 1973, có đoạn:
Gió núi về gió núi mênh mông
Võng rung rinh tôi biết anh thao thức
Ôi! Đất nước tháng năm đánh giặc
Mặt trăng lên từ phía những khu rừng.
“Mặt trăng lên từ phía những khu rừng” viết thế là sâu và gợi. Ưu điểm này càng về sau càng được tác giả phát huy một cách tối đa. Nguyễn Trác thường kết thúc bài thơ bằng những câu thơ có sức gợi như thế. Cũng viết về đề tài chiến tranh nhưng bài “Giải thích” lại lấy bối cảnh khá rộng và thời gian khá dài. Đây là bài thơ của một người nói về thế hệ mình:
Đó là những đứa trẻ sinh ra
Những năm 40, 41, 45…
Đất nước hai triệu người chết đói
Mây đen bay trên thế kỷ dữ dằn
Và chúng tôi lớn lên
Bên cạnh những xác chết và những người thương tật chiến tranh
Trong tiếng vang những ngọn sóng lớn
Mây đen bay trên Tổ quốc tím bầm
Đó là một thế hệ sẵn sàng xả thân vì Tổ quốc
Mười chín đôi mươi trời xanh goá bụa
Mười chín đôi mươi bàn ghế xuống đường
Mười chín đôi mươi già như lịch sử
Cảm hứng trở nên tung phá, khơi gợi nhiều chiều mà vẫn giữ được sự chân cảm. Cách viết tránh được kể lể, làm tăng tính khái quát, dào dạt nhưng không xô bồ, nồng nhiệt nhưng không rơi vào to tiếng. Ở đây, Nguyễn Trác đã có sự kết hợp rất nhuyễn giữa cảm và nghĩ. Tính triết lý càng về sau càng đậm. Cô đặc lại là ở cách sống. Cách sống trong chiến tranh chuyển sang cách sống trong thời bình. Mở đầu mang tính tự sự khép lại mang tính tuyên ngôn. Tuyên ngôn về tư cách của một thế hệ, đó là sự giải thích về tư cách một thế hệ, cũng là sự ứng xử phù hợp giữa quá khứ và tương lai. Là một thế hệ được tôi rèn qua chiến tranh, họ biết cách xác định trách nhiệm cho bản thân sao cho phù hợp với cuộc sống mới:
Chúng tôi biết rất rõ rằng
Cả thái độ chán chường
Lẫn hoài nghi cuộc sống
Có lẽ đều không hợp với tương lai
Không ai có quyền vòi vĩnh gì quá khứ.
Cũng giống như hầu hết các nhà thơ thuộc thế hệ mình, thơ Nguyễn Trác về sau mang nhiều yếu tố thế sự. Trước một cuộc sống còn ngổn ngang, chuyển đổi nhiều giá trị các nhà thơ không dấu nổi những nỗi niềm. Đó là chỗ giống nhau, chỗ khác nhau là Thơ Nguyễn Trác nhiều nỗi niềm (và nhiều nỗi niềm là phải) nhưng đó là một nỗi niềm của người trong cuộc, mừng và lo, băn khoăn và tin tưởng:
Thế giới ảo bên một đời sống thật
Đã khiến lòng ta thấy bất an
(liễu biếc)
Biết bao giờ thế nhân trọn vẹn
Đêm lạnh nhiều đâu phải vì sương
(Hướng dẫn viên du lịch hàng không)
Và mỹ phẩm dần dà có nhu cầu lớn hơn sách vở
(Bản tin truyền hình đêm)
Trước những hiện tượng xuống cấp về bậc trang giá trị, nhà thơ lên tiếng cảnh báo cần thiết cho sự bảo toàn đạo đức xã hội. Chối bỏ hoặc phê phán một chiều đều không thoả đáng. Vấn đề là làm sao đấu tranh để loại bỏ những cái tiêu cực, vun xới những cái tốt đẹp, cuộc đấu tranh này không chia tuyến như trong chiến tranh mà nó diễn ra ngay trong mỗi một con người. Nhà thơ nhận ra điều đó và chỉ cho mọi người tìm thấy sức đề kháng ngay trong bản thân mình.
Khi thế giới ngày càng phẳng
Và đời thực dựng hơn
Anh trở về bên cỏ
Lắng thầm thì tiếng cỏ xanh non
(Khi nhà cao Hà Nội bão hoà)
Trở về với cỏ là trở về với những gì thanh sạch nhất, là trở về với sự sống lành mạnh trong mỗi một con người. Cuộc sống tươi non nhưng đầy khoẻ khoắn, nó nhân danh hy vọng và tương lai:
Nhưng có lẽ trái tim anh vẫn thế
Sách vở như xưa dù biết lỗi thời
Bên bếp lửa chú gà vừa nở
Gại gại chiếc mỏ hồng lên vỏ trứng vỡ đôi
(Xưa ta gối đầu giường)
Nguyễn Trác thường có những câu thơ kết rất ý vị. Anh gợi mở để cho sự sống lên tiếng. Đó là cách nói của các nhà thơ phương Đông, tránh tận ngôn. Nhà thơ dựng lên một hình tượng và để hình tượng lên tiếng, đó chính là sự đa thanh trong biểu cảm.
Thái độ đối với tương lai đúng đắn như thế nào thì thái độ đối với quá khứ cũng cần đúng đắn như thế. Nguyễn Trác có nhiều lần trở lại lịch sử, lần nào cũng đem theo những tâm sự mới. Cách làm mới lại lịch sử là đem đến một cách nhìn mới, xuất phát từ chỗ đứng của hôm nay. “Trên bến Bồ Đề” là một bài thơ dài, nói về tâm trạng của Lê Lợi trước khi vào thành Đông Quan để lên ngôi.
Mai ta vào thành
Thuận thiên thừa vận
Đời ta chưa từng lên điện Kính Thiên
Bình sinh ngày ngày chỉ ham kinh sử
Đánh giặc vì không muốn làm tôi tớ
Chứ không màng phú quý công danh
Mặc dù vậy, việc lên ngôi vẫn là một tất yếu khách quan. Lê Lợi lên ngôi là yêu cầu của lịch sử. Còn việc ông ở ngôi thế nào lại là chuyện khác. Nguyễn Trác như tiên liệu trước những rủi ro, khi anh đặt bút viết những câu đầy gửi gắm:
Mặt trời dù chiếu sáng khắp nơi
Vẫn cứ có người còn trong bóng tối
Đức Vua ơi người có thấy chúng tôi
Vẫy vùng nhung y nên công đại định
Nhưng đại định phải là một phép cộng liên tục
Phải bắt đầu từ dân
Và đến mỗi người dân
Nhìn thấy dân, nhắc đến dân trong buổi lên ngôi của hoàng đế là một cách nhìn sâu sắc chứng tỏ sự già dặn của một bản lĩnh thơ. Cũng vậy, trong bài thơ “Một khúc ca cho Mỵ Châu”, tác giả có cách nhìn riêng về tấm bi kịch lịch sử. Tác giả không giống các nhà sử học phê phán một chiều sự lầm lạc của Mỵ Châu dẫn đến cái chết oan nghiệt của nàng. Ngược lại, tác giả để Mỵ Châu nhìn thấy sự lầm lạc của mình như một sự ngộ nhận của lịch sử:
Thiếp chết đi lòng còn ngơ ngác hỏi
Chàng là ai
Một người tình thuỷ chung
Một người tình gian dối
Hay chàng là con rối
Bước mù loà trên dây
Tất nhiên, đau đớn quá phải cất lên câu hỏi. Nhưng người ngơ ngác duy nhất trong tấn kịch được sắp sẵn này là Mỵ Châu, còn Trọng Thuỷ thì nó biết rất rõ nó là ai và phải làm gì? Sự ngơ ngác của Mỵ Châu không làm giảm tội cho nàng mà càng thấy sự thâm độc và bỉ ổi của kẻ thù lợi dụng tình yêu trinh bạch và ngây thơ của nàng? Trong tấn bi kịch này, tác giả có cái nhìn sâu hơn khi cho rằng, kẻ mắc tội với xã tắc không phải duy nhất có nàng, mà còn là sự ngây thơ của Vua cha. Tác giả có lý khi hạ bút
Sao An Dương Vương giết con mà không giết
Sự ngây thơ của chính mình?
Câu hỏi đau đớn của lịch sử. Riêng chỗ này thì nhà thơ khác với các nhà sử học. Một cách nhìn riêng như thế làm cho thơ của Nguyễn Trác có chiều sâu của sự chiêm nghiệm. Trong bài “Lưu dân” tác giả có cách nhìn bổ sung cho việc mở cõi. Huỳnh Văn Nghệ rất nổi tiếng với hai câu thơ: “Từ thuở mang gươm đi mở cõi, ngàn năm thương nhớ đất Thăng Long”. Nguyễn Trác viết tiếp:
Nhưng nếu chỉ mang gươm làm sao thành
Đất nước
Thành lý ngựa ô, đờn ca tài tử
Thành bánh tét, khăn rằn
Thành ruộng vườn thẳng cánh cò bay
Trong chiều sâu của sự cảm nhận, thơ Nguyễn Trác thường lấy cảm hứng ở những sự việc bình thường. Việc bình thường nhưng cảm xúc thì khác thường. Đó là nhờ ở khả năng phát hiện. Chính nhờ ở khả năng phát hiện mà thế giới trở nên luôn luôn mới. Thế giới được mới hoá vì tâm hồn nhà thơ luôn khắc khoải không yên. Đọc thơ Nguyễn Trác thấy rất rõ điều đó. Câu thơ rất giản dị nhưng ta thấy tâm hồn anh chấn động:
Đã bao lần anh đứng trú mưa
Mà quên cây đang ướt
(Đã bao lần anh đứng trú mưa)
Tiếng đàn tính dẫn mùa xuân ra suối
Rượu Tày thơm bếp lửa lứa đôi
(Đêm nghe hát Then ở Quỳnh Sơn)
Anh vẽ một tiếng gọi
Luôn vang trong lòng mình
(Mùa lá rụng)
Đó là những câu thơ không dễ viết nếu đời sống nội tâm không mạnh, đúng như tác giả đã tâm sự:
Cái vô tận của thế giới
Được thay thế bằng cái vô tận của tâm hồn
(Rồi bụi tre trong vườn bị chặt)
Như vậy thì, muốn đổi mới thơ trước hết phải đổi mới tâm hồn. Nhà thơ phải luôn luôn chống lại những cái cằn cỗi, ốm yếu từ trong bản thân mình. Đó phải chăng là tâm lý tự thoả mãn, tâm hồn nguội lạnh, không còn khát vọng nữa. Đó không chỉ là căn bệnh giết chết cảm xúc mà còn làm thui trột tài năng. Chống lại căn bệnh đó là chấp nhận một trận chiến ở ngay trong lòng mình.
Trong cái thời điện thoại ở bên
Vợ con ở bên không còn ly biệt
Cuộc đời hình như tới đích rồi
Những tủ bàn che khuất hết buồn vui
(Trong cái thời thừa công cụ để in)
Báo động về cuộc sống trưởng giả trong đời cũng chính là báo động về một sức ì trong thơ. Nguyễn Trác rất có ý thức giữ gìn sự ấm nóng của tâm hồn. Anh viết về “ Mẹ” rất cảm động:
Ở biên mầu trắng thành quen thuộc
Trắng của lau và mây trắng trên cao
Về quê thăm mẹ vừa qua ngõ
Giật mình tóc mẹ trắng khi nao
(Lau Trắng)
Không có thứ kĩ thuật nào thay thế được cái tình thật của nhà thơ. Và sự tìm tòi, cách tân trước hết là từ ngay trong tâm hồn mình. Sẵn cái tình ấy, anh toả ra đời sống, thì tự nhiên cuộc sống trở nên giầu có và hấp dẫn lạ thường. Nguyễn Trác có bài thơ “ Gió vẫn trên đường” viết về chị lao công quét rác và anh thương binh rất cảm động:
Tiếng chổi tre vẫn quét trên đường
Tiếng gậy tre vẫn gõ trên đường
Và tôi nghe gió vẫn trên đường
Thổi không đầu không cuối
Đúng! Nhà thơ muốn ca ngợi vẻ đẹp vĩnh cửu của những người biết hy sinh và dám hy sinh vì người khác. Đó là chân giá trị. Và đó cũng là thước đo phẩm giá một con người. Từ những con người bình dị ấy toả ra một thứ ánh sáng của sự lương thiện có sức soi dẫn và an ủi con ngừoi. Cái mới ở đây không phải từ cảnh từ người mà từ tình cảm của nhà thơ. Cái gì chạm được vào trái tim thì nó luôn luôn mới. Với một quan niệm như vậy, tôi đọc đi đọc lại không biết bao nhiêu lần bài thơ “Em giữa vườn cây” tác giả viết năm 1983 nhân chuyến đi thực tế ở nông trường cao su Đồng Nai. Nói đây là một bài thơ về lao động sản xuất cũng được, mà bảo đây là bài thơ tình chắc cũng không ai phản đối. Bài thơ cho tôi thấy sự sung mãn của nông trường, nhưng cái thực sự làm tôi xúc động đó là tình cảm của tác giả. Nhờ có cái tình ấy mà cảnh vật lung linh lên tất cả. Bài thơ viết rất nhuyễn. Bên cạnh sự tươi tốt của các hình tượng là sự đan quyện của thứ âm điệu có sức ám ảnh rất lạ. Đây là bài thơ rất tiêu biểu cho cách cảm của Nguyễn Trác. Vì bài thơ không dài và khổ nào cũng hay nên tôi xin chép nguyên văn ra đây để chúng ta cùng cảm nhận
Em giữa vườn cây
Em giữa vườn cây, cây giữa lô
Cao su đang lứa nhựa căng chờ
Tháng Ba hoa nở rừng thơm ngát
Ơ tiếng bờ chao hót ngẩn ngơ
Em giữa vườn cây, cây giữa sương
Bao la mầu đất đỏ nông trường
Những cành non mới vừa lai tháp
Theo mặt trời lên lặng lẽ hương
Em giữa vườn cây giữa bạn bè
Miền Đông bất khuất chiến khu D
Hai ta đi giữa mùa khai thác
Lá với cành xanh nghiêng xuống che.
Đồng Nai 1983
Hơn nửa thế kỷ cầm bút, Nguyễn Trác đã đi qua nhiều chặng đường thơ. Mỗi chặng đường là một sự ghi dấu những tìm tòi, sáng tạo của anh. Hồn hậu và say đắm, luôn luôn tự làm mới mình để đem đến chiều sâu cho thi cảm, đó là cống hiến của Nguyễn Trác vào nền thơ chung của chúng ta. Với một người luôn luôn “ mang nặng nỗi buồn trẻ thơ” như Nguyễn Trác, thì thế giới luôn là một thế giới mở đem đến sự bồi đắp không ngừng. Nhất định bạn đọc còn được đón nhận nhiều thi phẩm mới của anh khi hồn thơ đang đi vào độ chín.
Hà nội ngày 6/1.2022
Nguồn Văn nghệ số 8/2022