April 20, 2024, 8:56 pm

Sức mạnh của người lính Trường Sơn

 

Lê Quang Trang là nhà thơ trưởng thành trong cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước. Năm 1970 sau khi tốt nghiệp khoa Văn Trường đại học tổng hợp Hà Nội, theo tiếng gọi thiêng liêng tổ quốc Lê Quang Trang cùng với nhiều sinh viên hăm hở vượt hàng ngàn cây số đường rừng Trường Sơn để có mặt nơi tuyến lửa.

Dầu ngày ấy đã xa rồi, nhưng ký ức về những người lính Trường Sơn, những chàng trai cô gái thanh niên xung phong đối mặt với cái đói, đối mặt với cái chết trong mưa bom bão đạn của giặc Mỹ, vẫn luôn luôn đau đáu trong tâm hồn và trái tim ông. Từ cảm xúc dồn nén về con người và cuộc sống trong chiến đấu đã trở thành một động lực lớn, để ông dồn hết tâm trí hoàn thành tác phẩm trường ca Trên con đường ấy Trường Sơn tạo được âm hưởng lớn trong lòng bạn đọc.

Khác với nhiều tác phẩm của nhà văn đương thời, trường ca Trên con đường ấy Trường Sơn có lối viết rất riêng của Lê Quang Trang, nó như một ký sự bằng thơ. Một lối viết giản dị mà không dễ dãi, đề cập đến nhiều mảng của cuộc chiến, mà bố cục mạch lạc, khúc chiết. Ngay từ tựa đề, Lê Quang Trang chỉ trích dẫn ngắn gọn lời của đại tướng Võ Nguyên Giáp “Năm tháng đi qua nhưng đường Trường Sơn - đường Hồ Chí Minh, mãi mãi ghi vào lịch sử dân tộc ta như một con đường huyền thoại, một kỳ tích của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước trong thế kỷ XX.

Với tập Trường ca này, Lê Quang Trang đã cố gắng đưa hết tài năng và vốn sống được tích lũy của mình từ những năm tháng ở chiến trường, để khắc họa đậm nét về con đường Trường Sơn, như lời khẳng định của đại tướng Võ Nguyên Giáp. Ông tâm sự: Trường ca này xem như tập nhật ký tuổi trẻ cuộc đời mình, nó cũng là một món quà tri ân những người đã từng đổ mồ hôi và máu trong cuộc chiến tranh ái quốc vĩ đại này...

Mở đầu tập Trường ca, những câu thơ chân thật nồng hậu: Đã nhiều đêm về trong giấc mơ tôi/ Gặp lại Trường Sơn những năm tháng cũ/ Gặp rừng đại ngàn mùa khô lá đổ/ Gặp lại chiến tranh một thuở gian lao.

Tập Trường ca được chia làm 7 chương, mở đầu chương I: Tiềm thức là những nét chấm phá về cảnh rừng thiên nhiên hoang dã, nơi mở ra con đường Trường Sơn cũng là nơi không thể nào phai mờ được tình cảm của đồng bào dân tộc Vân Kiều, Ba Na, Gia Rai… gắn bó với bộ đội và thanh niên xung phong như cây với đất. Bằng những câu thơ mang màu chính luận, tác giả đã giải thích rõ tình hình chính trị, bối cảnh lịch sử và âm mưu xảo quyệt của đế quốc Mỹ khi ngăn chia giới tuyến.

Với Trường Sơn, Lê Quang Trang nêu rõ cả những địa danh cụ thể nơi anh đã đặt chân tới: Dấu chân tôi năm đi Nam đặt ở cửa rừng/ Tại làng Ho tỉnh Quảng Bình/ Không phải ai cũng biết/ Rừng dưới chân ẩm ướt/ Đầy trời pháo sáng treo/ Tiếng máy bay rú rít trên đầu/ Bãi khách người vào người ra nhộn nhịp/ Ánh sáng mờ soi những hố bom toang hoác/ Như vết thương lở loét trước cửa rừng/ Nỗi kinh hoàng không ngăn nổi bước chân/ Của đoàn đi tới.

Đúng làng Ho, nhiều người đã đi qua và họ có thể không nhớ nữa, nhưng họ sẽ nhớ nhiều tên làng khác cũng hiện lên cảnh bi tráng như làng Ho này, cũng hiện lên khí thế rầm rập bước quân đi với “mũ tai bèo và quần áo màu xanh” như làng Ho này. Hình ảnh chiếc mũ tai bèo và nụ cười trẻ trung đầy sức sống mãnh liệt được nhà thơ Tố Hữu đưa thành biểu tượng “Chiếc mũ kia của chủ nghĩa anh hùng cách mạng” và “Sáng trên đầu như một mảnh trời xanh”. Đọc trường ca Trên con đường ấy Trường Sơn đã lý giải cho độc giả hiểu sức mạnh của người lính Trường Sơn, dầu mưu chước của quân thù thâm hiểm đến bao nhiêu, dầu vũ khí tối tân của quân thù đến mấy cũng không thể khuất phục được họ. Bởi họ có một điểm tựa vững chắc là Đảng vạch đường chỉ lối cho họ biết cầm súng đi lên phía trước, bởi họ có một hậu thuẫn vững chắc là nhân dân, là hậu phương lớn luôn sát cánh cùng tiền tuyến lớn. Những con chữ long lanh như từng hạt nắng ở tập trường ca này, đó là tình đoàn kết yêu thương của đồng đội, tinh thần nồng nàn yêu nước của những chàng trai, cô gái thanh niên xung phong mở đường. Chính sự yêu thương vô tận ấy, đã gieo niềm tin mãnh liệt vào đồng bào dân tộc hóa thân cùng họ: Những tinh hoa của buôn làng/ Cùng cán bộ cởi trần đóng khố/ Từng về đây chịu chung gian khổ/ Hạt gạo chia đôi/ Than cỏ tranh ven đồi/ Thành vị mặn những ngày đói muối.

Lê Quang Trang, quan sát tinh tế từ hiện thực cuộc sống hàng ngày và dùng ngôn ngữ mộc mạc: Thứ côn trùng bé teo mà gây bao tác hại/ Bám vào cổ vào tai, vào cơ thể con người/ Cảm thấy đau là chúng đã no rồi/ Cơn sốt rét cũng bắt đầu từ đó/ Chúng giấu mặt trong lá rừng cây cỏ/ Thấy hơi người như ma quỷ hiện ra.

Rồi những cảnh “Rắn độc cắn đôi mắt trừng mở mãi”, “Mùa mưa về bạn bị lũ cuốn đi” đủ cho người đọc hiểu để làm nên chiến thắng vĩ đại cho tổ quốc, đưa non sông thu về một mối, những người lính hành quân dọc cánh rừng, những thanh niên xung phong mở đường không chỉ phải nộp “thuế máu” cho vắt muỗi nữa mà phải chịu nhiều hy sinh đau đớn khác giữa đại ngàn này. Nhưng khi đọc Lê Quang Trang lại truyền đến cho đọc giả một luồng gió mới. Từ chương V: Những cánh chim đầu đàn, đến chương VI: Chi nhánh, chi lưu, nhà thơ đã mở tung “cánh cửa” thơ, để đọc giả đón nhận được ý chí quyết tâm, đường lối chiến lược quân sự rất tài tình, những hy sinh vô cùng lớn lao của tập thể, cá nhân để làm nên những chiến công hiển hách. Một thông điệp gửi cho nhân loại và thế hệ mai sau biết rằng: Không chỉ có con đường Trường Sơn ở rừng, còn có một Trường Sơn trên biển. Tất cả những người đã đem sức lực, mồ hôi và xương máu của mình cống hiến cho Trường Sơn ở rừng và biển, họ đã “Thành tượng đài của thế kỷ 20” vun đắp lý tưởng cho thế hệ mới lòng yêu nước bất diệt.

Nguồn Văn nghệ số 51/2020


Có thể bạn quan tâm