April 25, 2024, 3:47 pm

Rèn kỹ năng giải thích trong bài văn nghị luận cho học sinh giỏi

1.

Với bài làm văn nghị luận của học sinh giỏi, kĩ năng giải thích có vai trò quan trọng. Giải thích đúng là điều kiện tiên quyết để xác định trúng vấn đề nghị luận, từ đó có định hướng chính xác để phân tích các khía cạnh của vấn đề, sử dụng lí lẽ, dẫn chứng phù hợp. Kĩ năng giải thích cũng giúp người viết có thể lí giải nguyên nhân các đặc điểm giống, khác nhau của các đối tượng nghị luận, nguyên nhân thành công, sức hấp dẫn của một tác giả, tác phẩm, hiện tượng, trào lưu văn học,... từ đó có những bình luận sâu sắc về vấn đề. Có thể coi giải thích là khâu đầu tiên và cũng gần như là khâu sau cùng trong bài văn nghị luận, là yếu tố quyết định thành công bài văn của học sinh giỏi. Vì vậy, thực hiện đề tài này, chúng tôi hướng tới mục đích đưa ra cái nhìn tương đối hệ thống về việc rèn học sinh cách vận dụng thao tác giải thích, hình thành cho các em kĩ năng giải thích vấn đề, từ đó linh hoạt, chủ động trong từng tình huống cụ thể, đáp ứng nhiệm vụ học tập của một học sinh giỏi.

2.

Trong văn nghị luận, giải thích là “dùng lí lẽ để giảng giải, cắt nghĩa giúp người đọc, người nghe hiểu rõ một hiện tượng, một vấn đề nào đó” (Ngữ văn 10 Nâng cao, tập 2, Nxb Giáo dục, 2018, tr.147). Nhờ vậy, giải thích giúp nâng cao nhận thức, trí tuệ, bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm cho con người. Rèn kĩ năng giải thích là giúp học sinh biết cách vận dụng thao tác lập luận giải thích trong quá trình học tập bộ môn Ngữ văn, đặc biệt là trong các bài nói, bài viết, bài thi của học sinh giỏi.

Trong bài viết, học sinh thường vận dụng thao tác giải thích chủ yếu ở phần thân bài. Nếu chúng ta tạm chia thân bài thành 3 phần nhỏ là phần tổng quát; phần phân tích, chứng minh; phần đánh giá, thì thao tác giải thích có thể được vận dụng ở cả ba phần này. Nếu ở phần tổng quát, học sinh phải giải thích các khái niệm khó, giải thích ý kiến; phần phân tích, chứng minh, cần cắt nghĩa câu từ, hình ảnh thơ, chi tiết, hình ảnh trong văn xuôi thì ở phần đánh giá, tùy từng đề cụ thể sẽ có cách đánh giá khác nhau. Học sinh có thể lí giải nguyên nhân các đặc điểm giống, khác của đối tượng bàn luận, lí giải nguyên nhân tạo nên sự thành công, hấp dẫn của một tác giả, tác phẩm văn học...

Trong thực tế, người ta thường sử dụng các phương pháp giải thích chủ yếu: phương pháp nêu định nghĩa, phương pháp liệt kê các biểu hiện, phương pháp so sánh, đối chiếu, phương pháp chỉ ra nguyên nhân, phương pháp nêu các mặt lợi, hại của vấn đề.

Theo đó, trong bài văn nghị luận, học sinh cần xác định được vấn đề cần giải thích, sau đó là các phương pháp phù hợp cần vận dụng để giải thích vấn đề đó. Các em phải đọc kĩ đề bài, gạch chân các từ ngữ quan trọng, các khái niệm. Thông thường, cách giải thích hữu hiệu nhất là học sinh biết đặt ra các câu hỏi và trả lời các câu hỏi đó.

Với mỗi dạng bài, cần có sự vận dụng những kĩ năng giải thích phù hợp.

 

Vận dụng kĩ năng giải thích trong bài văn nghị luận xã hội

* Vận dụng kĩ năng giải thích để xác định vấn đề xã hội cần nghị luận

Với đề nghị luận xã hội, người ra đề thường đưa ra một ý kiến hoặc một vấn đề và yêu cầu học sinh bày tỏ suy nghĩ. Muốn xác định đúng vấn đề xã hội cần nghị luận, giáo viên cần hướng dẫn học sinh tự đặt cho mình các câu hỏi: Trong đề bài có từ ngữ, hình ảnh nào đáng chú ý? Nghĩa đen, nghĩa bóng của các từ ngữ, hình ảnh, cách diễn đạt đó là gì?... Trả lời những câu hỏi trên, các em sẽ xác định được vấn đề cần bàn luận. Phương pháp giải thích được vận dụng phổ biến nhất là nêu định nghĩa. Chẳng hạn, với đề bài: “Có ý kiến cho rằng: Cuộc đời của tôi và bạn là con thuyền vượt qua bao sóng gió. Chúng ta vừa là thuyền trưởng, vừa là hoa tiêu. Hãy nêu suy nghĩ của anh/chị về ý kiến trên”.

Với đề này, học sinh cần vận dụng thao tác giải thích để giải mã thông điệp mà ý kiến muốn nhắn gửi đến mỗi chúng ta, cũng chính là xác định vấn đề nghị luận. Trước hết các em phải giải thích ý nghĩa các từ ngữ, hình ảnh quan trọng: cuộc đời, con thuyền, thuyền trưởng, hoa tiêu rồi rút ra vấn đề cần bàn luận.

* Vận dụng kĩ năng giải thích để bàn luận về vấn đề xã hội đó

Trọng tâm của bài văn nghị luận xã hội nằm ở phần bàn luận. Học sinh vận dụng tổng hợp các thao tác giải thích, phân tích, chứng minh, bình luận, so sánh. Thao tác giải thích giúp học sinh bàn luận, lí giải về vấn đề sâu sắc, có sức thuyết phục hơn. Sau khi đã xác định được chính xác vấn đề xã hội cần nghị luận, học sinh có thể tự đặt ra cho mình các câu hỏi như: Ý kiến có đúng không? Tại sao lại nói như vậy? Nguyên nhân của vấn đề là gì? Kĩ năng giải thích sẽ giúp các em trả lời các câu hỏi đó. Cũng với đề nghị luận xã hội vừa dẫn, học sinh có thể khẳng định ý kiến đưa ra là đúng và lí giải vì sao nó đúng. Học sinh có thể tự đặt câu hỏi: Vì sao nói “Cuộc đời của tôi và bạn là con thuyền vượt qua bao sóng gió. Chúng ta vừa là thuyền trưởng, vừa là hoa tiêu”. Đây là một hướng giải thích với các ý chính:

Thứ nhất, con đường đời chúng ta đi có thể sẽ gập ghềnh, nhiều chông gai, đầy sóng to, gió lớn. Mỗi người hãy tự làm một con thuyền để chủ động chuẩn bị cho cuộc hành trình của đời mình.

Thứ hai, là người thuyền trưởng, ta phải vững tay chèo, vững niềm tin, giàu ý chí, nghị lực để vượt qua phong ba, thác ghềnh hay chính là những thử thách, khó khăn.

Thứ ba, là người hoa tiêu, ta phải luôn tỉnh táo, bình tĩnh, xác định đúng hướng đi cho con thuyền.

Thứ tư, nếu hoa tiêu xác định đúng đường mà thuyền trưởng lái chệch đi, hoặc thuyền trưởng vững vàng mà hoa tiêu chỉ sai đường thì trong cả hai trường hợp con thuyền khó tránh khỏi bão tố. Hoa tiêu và thuyền trưởng phối hợp chặt chẽ sẽ tạo cho con thuyền thêm sức mạnh và sự dũng mãnh đạp lên đầu sóng, ngọn gió, cập đến bến bờ thành công.

Thứ năm, nếu con thuyền đó không có hoa tiêu lẫn thuyền trưởng thì sẽ lênh đênh ngoài biển cả, không biết đâu là bến, là bờ.

Với đề nghị luận về một hiện tượng đời sống, sau khi nêu ra thực trạng, hậu quả, học sinh phải lí giải nguyên nhân của hiện tượng, cả nguyên nhân khách quan và chủ quan. Chẳng hạn với đề: “Nghĩ về văn hóa xếp hàng của người Việt Nam hiện nay”, có thể giải thích nguyên nhân hiện tượng là do thực tế việc chờ đợi thường quá lâu, thủ tục hành chính rườm rà; đây đó vẫn có hiện tượng tiêu cực, thiếu công bằng, ưu tiên người thân quen, người có tiền. Những người vốn có ý thức xếp hàng cũng mệt mỏi, sợ bị lỡ việc, thậm chí dần mất niềm tin vào sự công bằng. Ngoài ra, nguyên nhân chủ quan là do việc thiếu ý thức tổ chức, kỉ luật, thiếu tinh thần tập thể, luôn muốn nhanh, muốn được việc, muốn hơn người của người Việt.

* Vận dụng kĩ năng giải thích để mở rộng, nâng cao vấn đề, nêu phản đề và rút ra bài học nhận thức, hành động phù hợp

Sau khi đã bàn luận, khẳng định tính đúng/sai của ý kiến, vấn đề, học sinh giỏi cần lật đi lật lại, xem xét toàn diện vấn đề ở nhiều khía cạnh, trong nhiều trường hợp khác nhau, thậm chí có thể nêu phản đề. Phần này sẽ thể hiện rõ tư duy logic, nhạy bén, khả năng phản biện của học sinh giỏi. Hầu như học sinh bình thường sẽ không biết cách mở rộng, nâng cao vấn đề, càng khó để nêu phản đề. Người thầy có thể hướng dẫn học sinh đặt câu hỏi như: Vấn đề có phải lúc nào cũng đúng không? Nó phù hợp với mọi đối tượng, hoàn cảnh hay chỉ phù hợp với một bộ phận, trong một vài trường hợp? Học sinh cần có lí lẽ phù hợp để giải thích rõ ý kiến của bản thân, thuyết phục người đọc. Ví dụ với đề đã dẫn: “Có ý kiến cho rằng: Cuộc đời của tôi và bạn là con thuyền vượt qua bao sóng gió. Chúng ta vừa là thuyền trưởng, vừa là hoa tiêu”, cần đặt ra câu hỏi: Có phải lúc nào chúng ta cũng đơn thương độc mã tự mình vừa làm thuyền trưởng, vừa làm hoa tiêu cho con thuyền cuộc đời của chính chúng ta? Câu trả lời là không. Học sinh có thể lập luận: Ý kiến nói trên là lời khuyên cho người trưởng thành. Với lứa tuổi chưa trưởng thành, mỗi bạn nhỏ vẫn cần có sự định hướng, giúp đỡ từ thầy cô, cha mẹ,... Tuy nhiên, ngay cả với người trưởng thành, họ phải tự chèo lái, tự chịu trách nhiệm về cuộc đời mình nhưng không có nghĩa là hoàn toàn đơn độc, không cần, không nhận sự giúp đỡ của bất cứ ai. Thậm chí trong cuộc đời, có được ai đó làm chỗ dựa về tinh thần thì quả thực là sự may mắn, là niềm hạnh phúc lớn lao.

 

Vận dụng kĩ năng giải thích trong bài nghị luận văn học

* Với đề phân tích, cảm thụ một đoạn trích, một tác phẩm cụ thể, nhiều khi học sinh cần giải thích từ ngữ, hình ảnh trong văn bản. Chẳng hạn phân tích hai câu thơ: “Chi phấn hữu thần liên tử hậu/ Văn chương vô mệnh lụy phần dư” trong bài Độc Tiểu Thanh kí, học sinh phải giải thích ý nghĩa các hình ảnh chi phấn, văn chương; thậm chí sâu hơn phải lí giải tại sao Nguyễn Du lại viết “Chi phấn hữu thần”, “Văn chương vô mệnh” và tại sao lại có cách diễn đạt “liên tử hậu”, “lụy phần dư”. Giải nghĩa được từ ngữ, hình ảnh là điều kiện cần để hiểu và cảm cái hay, cái đẹp của ngôn ngữ văn chương, giá trị thẩm mĩ, ý nghĩa tư tưởng gửi gắm sau câu chữ.

* Với dạng bài nêu vấn đề tổng quát hoặc nêu ý kiến về tác phẩm, tác giả, hiện tượng văn học, thông thường tùy theo từng đề, học sinh phải giải thích các khái niệm mà đề bài sử dụng hoặc giải thích ý kiến. Một số khái niệm thường gặp trong các đề mà học sinh giỏi phải nắm chắc để vận dụng giải thích chẳng hạn giá trị nhân đạo, tinh thần nhân văn, vẻ đẹp cổ điển - hiện đại, khuynh hướng sử thi - cảm hứng lãng mạn, tuyên ngôn nghệ thuật, cái tôi trữ tình,... Với đề đưa ra một hoặc hai ý kiến và yêu cầu bình luận, phân tích làm sáng tỏ, lại cần rèn cho học sinh kĩ năng giải thích ý kiến.

* Với các đề đưa ra nhận định mang tính lí luận: Với những đề thuộc dạng này, kĩ năng giải thích càng được vận dụng nhiều bởi lẽ học sinh không chỉ phải giải thích ý kiến mà còn phải giải thích sâu vấn đề lí luận đó.

Ví dụ: Cho đề bài: “Theo nhà phê bình Viên Mai: “Thơ là do cái tình sinh ra” (“Viên Mai bàn về thơ” – Ngữ văn 10 Nâng cao, NXB Giáo dục, 2010, tập 1). Anh/Chị hiểu ý kiến trên như thế nào? Hãy phân tích bài thơ Tự tình 2 của Hồ Xuân Hương để làm sáng tỏ ý kiến”.

Với đề này, giáo viên hướng dẫn học sinh giải thích nội hàm ý kiến của Viên Mai và giải thích vấn đề lí luận “Thơ là do cái tình sinh ra”.

 

3.

Để thực hiện chuyên đề theo mục tiêu trên, giáo viên có thể sử dụng các phương pháp dạy học và hình thức tổ chức thực hiện: Phương pháp phát vấn, phương pháp thuyết giảng, phương pháp làm việc nhóm, phương pháp gợi tìm, phương pháp so sánh, phương pháp hệ thống với các hình thức tổ chức thực hiện như: Kết hợp hướng dẫn cách thức chung để vận dụng kĩ năng giải thích trong bài văn nghị luận và thực hành bằng các đề, bài văn cụ thể; ra bài tập vận dụng từ chuyên đề.

Tuy nhiên, để quá trình rèn kĩ năng giải thích trong bài văn nghị luận có hiệu quả, giáo viên cần thường xuyên thực hiện ở cả các giờ học chính khóa trên lớp và trong các buổi bồi dưỡng đội tuyển học sinh giỏi. Trong các giờ chính khóa, việc rèn kĩ năng giải thích được thực hiện trong các tiết học Làm văn xuyên suốt chương trình Ngữ văn Trung học phổ thông (Thực hành thao tác chứng minh, giải thích, qui nạp, diễn dịch; Thực hành viết các đoạn văn chứng minh, giải thích, qui nạp, diễn dịch; Luyện tập vận dụng kết hợp các thao tác lập luận; Nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ; Nghị luận về một ý kiến bàn về văn học; Nghị luận về một tư tưởng đạo lí; Nghị luận về một hiện tượng đời sống; Luyện tập nghị luận về một vấn đề xã hội trong tác phẩm văn học...) và trong các giờ trả bài kiểm tra. Ngoài ra, với đối tượng học sinh giỏi, giáo viên xây dựng thành chuyên đề dạy tại các buổi bồi dưỡng đội tuyển, hướng dẫn cụ thể cách vận dụng thao tác này, lấy ví dụ minh họa và biên soạn hệ thống bài tập phù hợp để học sinh thực hành, luyện tập.

________

* Giáo viên Trường THPT chuyên Hùng Vương - Phú Thọ.

Nguồn Văn nghệ số 14/2020


Có thể bạn quan tâm