March 29, 2024, 12:01 am

Quan hệ Trung - Nga: Nửa đối tác, nửa đồng minh

 

Cuộc tập trận lớn nhất trong lịch sử của Nga có sự tham gia của Trung Quốc hé lộ khả năng về một liên minh hướng Đông để đối phó với Mỹ. Quan hệ đối tác Mátxcơva-Bắc Kinh phụ thuộc vào ba yếu tố: sức mạnh quân sự của Mỹ ở châu Âu, châu Á; quan hệ bất cân xứng giữa Nga và Trung Quốc và hai bên hỗ trợ lẫn nhau trong chính sách đối ngoại. Từ nhiều năm trở lại đây, hai nước ngày càng xích lại gần nhau. Nhưng Nga và Trung Quốc đơn giản chỉ là đối tác hay là đồng minh? Theo các nhà quan sát, bang giao Bắc Kinh-Mátxcơva nửa là đối tác, nửa là đồng minh.

Không có cường quốc châu Á nào là đồng minh thực sự của Trung Quốc. Cả Nhật Bản và Ấn Độ đều thù địch Trung Quốc. Tương tự, ở phương Tây, Nga cũng không có đồng minh. Sau khi Liên Xô tan rã, Nga đã tính tới việc liên minh với phương Tây, nhưng cuộc khủng hoảng Ukraina 2014 đã khiến điều này là không thể. Mặc dù hiện Nga-Trung chưa phải là đồng minh, nhưng quan hệ hai nước ngày càng được củng cố trên quy mô đáng kể. Một trục Bắc Kinh-Mátxcơva vẫn là nỗi losợ lớn của phương Tây.

 

Tổng thống Nga Vladimir Putin (trái) và Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình. Ảnh Internet.

Trục chống Mỹ

Điều kiện đầu tiên khiến Bắc Kinh và Mátxcơva xích lại gần nhau đương nhiên là sự đối kháng chung của cả hai nước đối với Washington. Cường quốc số một thế giới đang gây khó khăn cho Nga ở châu Âu và Syria, còn Trung Quốc thì đang gặp vấn đề lớn với Mỹ ở châu Á. Washington bị cả hai đối thủ Bắc Kinh và Mátxcơva coi là hiện diện quá nhiều ở lục địa Á-Âu. Quan hệ đối tác Nga-Trung ở giai đoạn đầu (2011-2014) được tạo ra nhằm đối phó với sự hiện diện khắp nơi của Mỹ. Nền kinh tế của Nga chỉ đứng thứ 12 thế giới, vì thế Mátxcơva cần tìm một đối tác mới tầm cỡ và có nền kinh tế vững chắc. Đương nhiên là tổng thống Putin hướng về Trung Quốc, quốc gia đã vươn lên đứng đầu thế giới về thương mại từ năm 2014. Trong bối cảnh làn sóng “chống phương Tây” dâng cao ở Nga, Trung Quốc dần dần được Mátxcơva coi như đối tác phù hợp nhất để đương đầu với các thách thức trong thế kỷ 21.

Mặc dù Trung Quốc có sức mạnh kinh tế và quân sự nổi trội nhất ở châu Á, nhưng Bắc Kinh luôn bị Washington đối kháng mạnh mẽ. Dù tổng thống Donald Trump đã rút Mỹ khỏi hiệp định TPP, sự hiện diện quân sự của Mỹ ở châu Á vẫn rất mạnh, với 40.000 lính đóng ở Nhật Bản, 28.000 lính tại Hàn Quốc, 2 tàu sân bay và 70 chiến hạm đóng tại Guam. Ngoài 3 khu vực chiến lược nói trên, quân đội Mỹ cũng hiện diện nhưng với quy mô nhỏ hơn, ở Philippines, Singapore và Thái Lan. Các căn cứ quân sự ở các quốc gia nói trên cho phép Mỹ tiếp cận với Biển Đông. Sự hiện diện quân sự của Mỹ, cho dù gây nhiều tranh cãi, đảm bảo duy trì nguyên trạng ở các vùng biển tranh chấp. Không có quân đội Mỹ, vị trí lấn lướt của Trung Quốc chắc chắn đủ để Bắc Kinh “múa gậy vườn hoang” tại các vùng biển đảo Trung Quốc cưỡng chiếm từ các nước láng giềng nhỏ hơn.

Liên minh Nga-Trung có thể sẽ không làm đảo lộn cân bằng địa-chính trị ở châu Á, dù là Đông Nam Á hay Đông Bắc Á. Tuy nhiên, quan hệ Bắc Kinh-Mátxcơva có thể sẽ tạo thành sức ép ở các khu vực còn lại trên thế giới. Ở Trung Đông, Trung Quốc ủng hộ chính sách của Nga tại Syria, cũng như thỏa thuận hạt nhân Iran. Tại Hội đồng Bảo an, Nga và Trung Quốc thống nhất với nhau để phủ quyết các dự thảo nghị quyết của phương Tây. Ở Trung Á, sự hợp tác của Bắc Kinh và Mátxcơva đã làm suy yếu vị thế của Hoa Kỳ. Dưới sức ép Nga-Trung và của Tổ chức Hợp tác Thượng Hải, chính phủ Kirghizistan đã đóng cửa căn cứ không quân của Mỹ ở Manas. Và cuối cùng, ở châu Âu và châu Phi, đầu tư của Trung Quốc và xuất khẩu khí đốt của Nga hợp thành “bộ đôi” ngăn chặn ảnh hưởng của Mỹ.

 

Vòng xoáy trừng phạt - trả đũa

Vào thập kỷ 70 của thế kỷ trước, Henry Kissinger đã sáng tạo ra khái niệm “tam giác chiến lược”. Hoa Kỳ thấy cần xích lại gần với cả Liên Xô lẫn Trung Quốc, thay vì để hai nước này “đoàn kết” nhau. Tháng 2/1972, tổng thống Mỹ Richard Nixon tới Bắc Kinh thiết lập quan hệ ngoại giao với Trung Quốc. Tháng 5/1972, ông sang Liên Xô để ký hiệp ước đầu tiên về hạn chế phổ biến vũ khí nguyên tử. Tuy nhiên, ngày nay, nước Mỹ thời tổng thống Donald Trump đang đi theo hướng ngược lại. Các nhà quan sát đang tự hỏi, bằng cách nào mà Washington liên tục khiến quan hệ của Mỹ với Nga và Trung Quốc xấu đi như vậy. Ngày 27/8/2018, các biện pháp trừng phạt mới của Mỹ nhắm vào Nga có hiệu lực. Các biện pháp này trừng phạt vụ Nga đầu độc cựu điệp viên Skrypal ở Salisbury, Anh quốc hồi tháng 3/2018. Phát ngôn viên bộ Ngoại Giao Nga đánh giá lệnh trừng phạt của Mỹ là bất hợp pháp và chỉ trích Washington đang chọn con đường đối đầu với Mátxcơva. Trong khi đó, Mỹ vẫn tiếp tục cuộc chiến thương mại nhắm vào Trung Quốc. Ngày 23/8, Washington áp thuế nhập khẩu 25% lên thêm 50 tỉ đô la hàng hóa nhập từ Trung Quốc. Biện pháp này cũng bị Bắc Kinh tố cáo là bất hợp pháp và Trung Quốc dùng biện pháp tương tự để trả đũa Mỹ. Chưa biết khi nào vòng xoáy trừng phạt và trả đũa này chấm dứt. Mới đây, Washington cũng tố cáo Bắc Kinh không áp dụng triệt để lệnh trừng phạt quốc tế nhắm vào Bắc Triều Tiên.

Trên thực tế, đối tác kinh tế Nga-Trung đã trở thành quan hệ chiến lược. Tuy nhiên, cái gọi là “đối tác chiến lược” này chỉ vững chắc chừng nào sức mạnh của hai nước vẫn còn chênh lệch nhau. Sự không cân xứng đó cũng thể hiện ở cả quy mô dân số: nếu “nước Nga ở châu Âu” có dân số đông đúc hơn nhiều thì vùng Viễn Đông của Nga chỉ có 7 triệu dân so với 1,5 tỉ dân Trung Quốc. Sự bất cân xứng về kinh tế và dân số khiến Nga không phải là mối đe dọa đối với Trung Quốc. Tuy nhiên, sự chênh lệch về sức mạnh quân sự và khí đốt lại có lợi cho Mátxcơva hơn, khiến Nga hấp dẫn được Trung Quốc, quốc gia vốn có nhu cầu rất lớn về dầu lửa, khí ga và rất muốn cải thiện sức mạnh quân sự. Việc làm cho các sức mạnh trên được cân xứng, đến lượt nó, sẽ đẩy liên minh Nga-Trung vào thế nguy hiểm. Nếu Nga không theo kịp Trung Quốc cả về kinh tế và quy mô dân số ở châu Á, thì Trung Quốc một ngày nào đó có thể cân bằng lại với Nga về quân sự, trong khi chất đốt thì không thể khai thác đến vô tận. Vậy thì hấp lực của Nga chỉ còn lại là “lãnh thổ”, “khả năng vươn tới châu Âu và Trung Đông”, cũng như “sức mạnh hạt nhân”.

Đúng là Mỹ không sai khi tố cáo Nga bằng mọi giá muốn tạo vùng ảnh hưởng trên toàn bộ lãnh thổ Liên Xô (cũ). Mỹ cũng không lầm khi chỉ trích Trung Quốc không tôn trọng các thỏa thuận của WTO. Nhưng thái độ cứng rắn hiện nay của Mỹ có thể gây hiệu ứng ngược. Với chính sách ngoại giao trừng phạt, vô hình chung, Washington đang củng cố “trục Nga-Trung” vốn không có lợi cho Mỹ. Có lo ngại cho rằng, Nga và Trung Quốc dường như đang thiết lập lại quan hệ đồng minh như hồi những năm 1950-1959. Mátxcơva và Bắc Kinh sẽ không chấp nhận để Washington thực hiện tham vọng bá chủ toàn cầu.

Cách đây 30 năm, các nhà chiến lược Mỹ cho rằng cần thể hiện chính sách Washington cởi mở với Bắc Kinh. Nhưng lo ngại trước tham vọng bành trướng trên biển của Trung Quốc và cũng để đối phó với sự lớn mạnh của quân đội Trung Quốc, Mỹ lại thực hiện chiến lược ngăn chặn. Nhưng chắc chắn trong việc này, Washington sẽ không có được sự trợ giúp của Mátxcơva. Trong cuộc chiến kinh tế chống Trung Quốc, tổng thống Trump đã có hai động thái gây bất lợi cho chính mình: ông đã từ bỏ Hiệp định xuyên Thái Bình Dương và cũng không không “mặn mà” liên minh với châu Âu. Cuộc đối đầu Trung-Mỹ sẽ là vấn đề cạnh tranh chiến lược của thế kỷ 21. Và dường như chính quyền Trump bắt đầu hiểu rằng, họ không sẽ không được lợi gì nếu đẩy Nga vào vòng tay Trung Quốc.

 

Có chung cách nhìn về thế giới

Quan hệ đối tác chiến lược Nga-Trung sẽ được duy trì nếu hai nước không can thiệp vào vùng ảnh hưởng của nhau. Về điểm này, chỉ có Trung Á là đặt ra vấn đề. Nga không phản đối việc Trung Quốc mở rộng ảnh hưởng ở Đông Bắc Á và Đông Nam Á. Còn Bắc Kinh không “lấn sân” Mátxcơva ở châu Âu và Trung Đông. Việc “chia chác thế giới” như thế chỉ giới hạn ở quyền lợi địa-chính trị. Hai nước khá thoải mái với nhau trong lĩnh vực đối ngoại và kinh tế, chẳng hạn sự xích lại gần nhau giữa Nga và Nhật, cũng như hợp tác kinh tế giữa Trung Quốc và châu Âu. Quan hệ Nga-Trung hiện diễn ra tốt đẹp nhờ hai nước có chung cách nhìn về thế giới. Đó là một thế giới đa cực hay đa phương, với giá trị phổ quát là “quyền lực tối cao của Nhà nước”, đi ngược với chủ nghĩa tự do ở châu Âu. Chính sự khác biệt trên đã khiến quan hệ giữa Nga và châu Âu xuống cấp trong giai đoạn 2008-2014, liên quan đến xung đột ở Gruzia và cuộc khủng hoảng Ukraina. Việc Trung Quốc dường như chấp nhận khái niệm “láng giềng gần” của Nga (chỉ các nước Cộng hòa thuộc Liên Xô cũ mà Mátxcơva coi là có lợi ích lâu dài và tuyên bố đặc biệt quan tâm đến số phận của cộng đồng người Nga và người nói tiếng Nga tại đây) chắc chắn được Mátxcơva coi là một thuận lợi.

Trái lại, phương Tây không thể trao cho Nga phạm vi kiểm soát như vậy. Theo chủ nghĩa tự do của phương Tây, các nhà nước có thể chọn đồng minh và thay đổi đồng minh mỗi khi thay đổi chính quyền. Quan điểm này không được Mátxcơva chấp thuận, vì Nga coi sự ổn định của khu vực ảnh hưởng mang tính quan trọng sống còn đối với an ninh quốc gia của Nga. Điều Mátxcơva mong muốn, là chấm dứt “trật tự tự do” sau Chiến tranh lạnh, vốn được thiết lập dựa trên đống tro tàn của Liên Xô. Nếu châu Âu và Nga xích lại gần nhau thì liên minh Nga-Trung có thể bị xem xét lại. Nhưng hiện giờ chưa có dấu hiệu gì cho thấy điều này có khả năng xảy ra. Thậm chí, nếu xem xét hai đợt tập trận gần đây nhất của Nga, chúng ta còn có thể thấy điều ngược lại. Cuộc tập trận Zapad-2017 là sự hợp tác giữa Nga và Belarus, với kịch bản là Belarus bị châu Âu xâm lược. Vostok-2018 lại là đợt tập trận chung giữa Nga, Trung Quốc và Mông Cổ, đối thủ giả định vẫn là châu Âu.

Tóm lại, quan hệ đối tác Mátxcơva-Bắc Kinh phụ thuộc vào cả ba yếu tố: sức mạnh quân sự của Mỹ ở châu Âu, châu Á, quan hệ bất cân xứng giữa Nga và Trung Quốc và hai bên hỗ trợ lẫn nhau trong chính sách đối ngoại. Quan hệ Nga-Trung sẽ xấu đi nếu chế độ của nước này hay nước kia đột ngột thay đổi. Nếu hai nước tạo được một liên minh chiến lược vững chắc, đó sẽ là một liên minh mạnh nhất hành tinh, trong lĩnh vực kinh tế và quân sự, có thể được triển khai khắp nơi ở lục địa Á-Âu. Các lãnh đạo Hoa Kỳ đã nhiều lần nhấn mạnh tầm quan trọng của việc không để cho Matxcơva và Bắc Kinh liên minh với nhau, nhất là vào thời Liên Xô. Hiện nay, phương Tây vẫn không muốn Mátxcơva và Bắc Kinh liên minh với nhau, nhưng các nước hai bên bờ Đại Tây Dương có ít cơ hội để ngăn chặn liên minh này./.

 


Có thể bạn quan tâm