March 29, 2024, 3:15 pm

Người vợ của nhà văn

Cho đến nay đã 86 tuổi, cứ mỗi bận nghĩ đến những câu thơ của các cô gái trong làng trêu chọc bà năm xưa, bà lại cười tủm tỉm: “Một bên chữ nghĩa văn chương/ Một bên bè nứa em thương bên nào?...”. Số là ngày ấy, khi bà còn là một cô bán hàng  xén xinh đẹp ở chợ quê, liền một lúc có hai anh đến hỏi bà. Cả hai đều người cùng làng, một anh cao to nhà giàu lắm, làm nghề buôn bè. Một  anh là bộ đội, có tài viết văn làm thơ khiến nhiều người xao xuyến, nhưng mải miết chiến đấu, năm khi mười họa mời gặp gỡ. Chọn lấy ai quả thật là không dễ dàng... Và rồi cuối cùng đã bà chọn anh bộ đội làm thơ. Dẫu biết là có thể khổ nghèo, phân ly, nhưng bà đã  quyết “Đói no thiếp chịu, lạnh lùng thiếp cam”…

Mà đói no thât, lạnh lùng thật chứ không đùa. Cái năm lấy nhau, còn là thời kháng chiến chống Pháp, ông là bộ đội xa nhà đi chiến đấu  biền biệt, đến hòa bình lại vẫn phải đi, đóng quân mãi giới tuyến Vĩnh Linh, còn bà thì vò võ một mình nơi làng Điểu Khê (Hà Tĩnh). Cũng bởi vậy mà đến 9 năm sau ngày cưới, ông bà mới có đứa con đầu lòng, đặt tên Thiều Quang. Rồi ông lại được điều ra Hà nội. Bà bế con theo ông, ở trong một căn nhà nhỏ nơi bãi Phúc Xá, không năm nào không phải bế bồng nhau chạy lũ lụt. Thương nhất là lũ con còn nhỏ, ông thì dắt thằng con trai, bà bế hai đứa con gái chạy lũ, chiều đến lại bơi ra tìm lô bản thảo của ông phải treo lên trần nhà… Nhiều mùa mưa bão nước vẫn thấm ướt làm nhòe hết nét mực. Ở căn nhà ấy, ngày ngày bà đi làm nhà nước, là nhân viên của bách hóa tổng hợp Hà Nội, tan giờ làm lại tất bật về chợ búa, bếp núc, giặt giũ “hầu” chồng viết văn và “hầu” bốn con đứa con nhỏ. Mà đâu miếng ăn đã đủ no, tấm áo đã đủ ấm. Gần như cả một đời là bà chịu đựng, nhịn nhường lo cho chồng an tâm viết lách, có ly rượu ly bia đãi đằng bạn bè, lo cho con cái học hành bằng anh bằng em, cho chúng nên người...

Sự hy sinh vất vả của bà luôn làm ông xúc động trên nỗi con đường ra trận. Năm 1969, giữa chiến trường ông viết gửi về bà:

Thương em lắm, hậu phương bề bộn

Dắt mẹ cõng con sơ tán đường trơn

Phiếu gạo, phiếu dầu chong đèn tính toán

Báo động nghiêng đêm giấc ngủ chập chờn.

 

Thư em viết liêu xiêu nét chữ

Chỉ báo tin vui và chuyện tốt lành

Em giấu kín những điều thắc thỏm

Để yên lòng người đối mặt chiến tranh.

 

Em vĩ đại như hậu phương vĩ đại

Vẫn vững niềm tin, gánh nặng vai mòn

Và ta biết em cắn răng chờ đợi

Ngày sum vầy trọn vẹn nước non

Đúng, câu thơ thật tuyệt vời. “Em vĩ đại như hậu phương vĩ đại”. Hậu phương ngày ấy của chúng ta thật vĩ đại, những người vợ có chồng  ra trận ngày ấy cũng thật vĩ đại. Bà chính là một trong  những người vợ vĩ đại ấy...

Chủ tịch nước Trần Đại Quang ân cần trao giải thưởng Hồ Chí Minh của Nhà văn Xuân Thiều cho bà Nguyễn Thị San

Chồng bà, ông Xuân Thiều, ở đầu đời có cầm súng ở đơn vị chiến đấu, nhưng sau này chỉ cầm bút làm thơ viết văn. Là nhà văn quân đội, nên phần lớn đời ông ở chiến trường. Những trang văn của ông rực rỡ chính những ngày tháng ấy. Ông viết nhiều, nhiều lắm, từng được giải văn học Nguyễn Đình Chiểu, giải thưởng văn học Hội nhà văn Việt Nam, Giải thưởng văn học Bộ quốc phòng, Giài thưởng văn học Nhà nước 2001, và gần đây nhất là giải thưởng cao quý nhất của Đảng và nhà nước, giải thưởng Hồ Chí Minh. Bà đã có vinh hạnh thay chồng nhận giải thưởng Hồ Chí Minh của ông do đích thân Chủ tịch nước trao tặng. Khi thấy bà lên nhận giải bằng xe lăn, Chủ tịch nước đã cúi xuống sát bà nói với bà những lời đầy xúc động và trao tặng bà tấm bằng của ông. Có lẽ đó cũng là phần thưởng cho chính bà, người vợ hiền, người thầm lặng gánh vác mọi việc nhà, việc con cái, mọi bão giông cuộc đời để nuôi các con nên người và thành đạt, và để cho ông chỉ yên tâm ngồi viết  và hoàn thành những sứ mệnh văn chương của mình...

Em vĩ đại như hậu phương vĩ đại

Vẫn vững niềm tin, gánh nặng vai mòn...

Câu thơ ấy của ông như luôn đúng với bà qua mọi thời gian...

Vâng, bà là Nguyễn Thị San, người vợ yêu quý của nhà văn quân đội Xuân Thiều, người đã bao lâu âm thầm góp mặt phía sau những thành công của ông


Có thể bạn quan tâm