April 25, 2024, 6:54 am

Người về - Mùa Xuân năm ấy

KỶ NIỆM 80 NĂM NGÀY CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VỀ NƯỚC, TRỰC TIẾP LÃNH ĐẠO CÁCH MẠNG

(28/01/1941 – 28/01/2021)

Tám mươi năm, kỷ niệm ngày Bác Hồ về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam giành thắng lợi – Một giai đoạn hào hùng, bi tráng đã được ghi lại, dựng lại bằng những tác phẩm văn học – nghệ thuật đặc sắc. Trong hội họa, các nhà điêu khắc, họa sĩ như Tô Ngọc Vân, Diệp Minh Châu, Nguyễn Thị Kim, Nguyễn Đố Cung, Phan Kế An, Huỳnh Văn Gấm, Trần Đình Thọ, Trịnh Phòng, Văn Giáo… Đã sánh tạo nhiều tác phẩm tranh, tượng có giá trị lịch sử và chất lượng nghệ thuật cao. Trong bài viết này chúng tôi xin giới thiệu 2 bức tranh sơn dầu của Họa sĩ Trịnh Phòng đó là bức: Bác Hồ về nước và bức Bác Hồ làm việc ở bên suối Lê Nin.

Bác Hồ Làm việc bên suối Lê Nin                            

Họa sĩ Trịnh Phòng tên thật là Trịnh Bá Phòng, sinh năm 1922. Vẽ bức tranh Bác Hồ về nước năm 1969 bằng chất liệu sơn dầu khổ 90x134cm được lưu giữ tại Bảo tàng Cách mạng Việt Nam, Bảo tàng Pác Bó, Bảo tàng Nghệ An. Tôi đã được xem lại tại Bảo tàng Pác Bó bức Bác Hồ về nước do họa sĩ Hoàng Ích Thu phóng tác (vì bức tranh gốc đã bị mất trong chiến tranh Biên giới tháng 2/1979). Tôi đã cất công đi tìm tác giả bức tranh. Thời tôi làm cộng tác viên VTV được họa sĩ Trịnh Việt (cháu họa sĩ Trịnh Phòng) là họa sĩ thuộc biên chế của VTV cho tôi số điện thoại của họa sĩ Trịnh Phòng, từ số điện thoại này tôi đã nối được “liên lạc” với họa sĩ Trình Phòng khi đó đang sống tại thành phố Hồ Chí Minh. Nghe tôi trình bày ý định tìm hiểu bức tranh, họa sĩ Trịnh Phòng đã vui vẻ cung cấp cho tôi nhiều tư liệu

Về bức tranh Bác Hồ về nước, họa sĩ Trịnh Phòng kể: Năm 1966, Bảo tàng Cách mạng Việt Nam có yêu cầu bổ xung tư liệu và hiện vật về ngày Bác Hồ về nước năm 1941 để trưng bày, đáp ứng yêu cầu khách tham quan. Hội Mỹ thuật Việt Nam đã giới thiệu ba hội viên: Nhà điêu khắc Diệp Minh Châu, họa sĩ Phan Thông và tôi, Trịnh Phòng. Một chuyến xe ô tô chở 3 chúng tôi cùng mấy cán bộ bảo tàng Cách mạng có cả nữ kiến trúc sư Việt Nga (con gái nhà Cách mạng Trường Chinh) lên Pác Bó.

Tại Pác Bó chúng tôi được cán bộ xã hướng dẫn tham quan. Được thăm hang Pác Bó, thăm bàn đá chông chênh, ghế đá nơi Bác Hồ làm việc nơi đầu nguồn, nước chảy qua các khe đá rồi đổ vào mặt hồ. Nước xanh trong như ngọc bích. Cảnh vật nơi đây thật yên tĩnh, nên thơ. Những dây cây rừng buông từ trên cao rủ xuống mặt hồ. Cây si có rễ thả xuống nước...  Sau chuyến đi tôi về Hà Nội làm phác thảo. Tuy nhiên còn thấy chưa đủ.

 Năm 1967, chúng tôi cùng cán bộ Bảo tàng Cách mạng lên Cao Bằng lần thứ 2, ở Pác Bó một tuần. Tôi nghiên cứu ký họa màu sắc điểm cần thiết, tìm mua được bộ quần áo chàm màu của địa phương. Tôi xin được ảnh chân dung của đồng chí Cáp, chân dung đồng chí Phùng Chí Kiên và được nghe tả lại nét mặt, tầm vóc của mấy cán bộ theo Bác, kiểu ăn mặc thế nào… tôi ghi chép tư liệu ký họa va li đựng hành trang của Bác, máy chữ của Bác dùng để chuẩn bị cho đề tài tiếp theo: Bác Hồ làm việc ở Pác Bó.

Tôi vẽ phác thảo kỹ kích thước to bằng thật như tác phẩm sẽ thể hiện. Tôi gửi phác thảo vào phủ Chủ tịch để xin ý kiến nhận xét của Bác Hồ. Bác bận công việc nên đã chuyển cho đồng chí Trường Chinh xem để trả lời. Ý kiến nhận xét như sau: “Nên bố trí đồng chí Lê Quảng Ba gần Bác, vì đồng chí có nhiệm vụ bảo vệ. Đồng chí Ba là người địa phương, còn đồng chí Cáp nên sắp xếp đi sau cùng. Đồng chí biết về thuốc, bận tìm cây thuốc để phòng chữa bệnh cho Bác. Bố trí đồng chí Phùng Chí Kiên đi đầu là đúng vì đồng chí thông thạo đường lối…”

Hoàn thành tác phẩm Bác Hồ về nước, Bảo tàng Pác Bó đã nghiệm thu. Nhà thơ Hoàng Trung Thông xem tranh đã có thơ cho tranh như sau:

Đây rồi đất nước Việt Nam

Thanh thanh dòng suối xanh lam núi rừng

Thắm tươi hoa nở đón mừng

Bác về cả một mùa xuân cùng về.

Bố cục tác phẩm Bác Hồ về nước: Vào sáng đầu xuân, trời hửng sáng, hoa đào nở, cây cỏ xanh tươi. Bác Hồ cùng đoàn cán bộ tháp tùng có đồng chí Phùng Chí Kiên, Lê Quảng Ba, đồng chí Thọ, đồng chí Vy, đồng chí Cáp. Ý tưởng của bức tranh: Bác Hồ chỉ tay về Pác Bó như ý muốn nói: “Nơi đây sẽ là căn cứ địa Cách mạng Việt Nam”. Với phong thái ung dung tự tại, cương nghị, cán bộ theo Bác hòa vui tiếp nhận. Người tay chống gậy dò đường. Cán bộ Phùng Chí Kiên vận quân phục đi đầu dẫn đường, vai đeo túi dết, Bác Hồ có khăn mặt vắt vai… ”

*

Tôi đã xem bản gốc tranh Bác Hồ về nước in trong vựng tâp của họa sĩ Trịnh Phòng tặng tôi nhiều lần và cất công đi tìm những “nhân vật’ trong tranh để giới thiệu khách tham quan Bảo tàng. Sau nhiều năm tìm kiếm tôi đã “tìm được” đủ 5 nhân vật trong tranh. Việc tìm và giới thiệu rất khó vì theo họa sĩ Trịnh Phòng, 5 đồng chí đó là: “đồng chí Phùng Chí Kiên, Lê Quảng Ba, đồng chí Cáp, đồng chí Thọ, đồng chí Vy.

Đồng chí Thọ, đồng chí Vy là ai? Trong khi hồi ký Lê Quảng Ba cho biết: “cùng đi với Bác có tôi (Lê Quảng Ba) đồng chí Phùng Chí Kiên, đồng chí Thế An, đồng chí Cáp, đồng chí Lộc”. Đó là những câu hỏi buộc tôi phải trả lời một cách “tâm phục, khẩu phục”. Tôi không trình bày quá sâu về “hành trình đi tìm” mà chỉ trình bày kết quả đi tìm như sau:

Đồng chí Phùng Chí Kiên: (người vác súng, đội mũ mềm, vai khoác túi vải, bên phải Bác Hồ). Ông tên thật là Nguyễn Vĩ, sinh năm 1901, tại làng Mỹ Quan, xã Diễn Yên, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An. Năm 1925, sang Quảng Châu dự lớp huấn luyện Cách mạng đầu tiên do đồng chí Nguyễn Ái Quốc tổ chức. Ông đã tốt nghiệp trường quân sự Hoàng Phố. Năm 1931, sang Liên Xô theo học tại trường Đại học Phương Đông của Quốc tế Cộng sản. Năm 1935, tham gia Đại hội lần thứ nhất của Đảng Cộng sản Đông Dương, được bầu vào Ban thường vụ Trung ương, phụ trách công tác Đảng ở hải ngoại. Năm 1940 cùng Hồ Chí Minh từ Vân Nam về Tịnh Tây (Quảng Tây) tham gia giảng dạy lớp huấn luyện cho 40 cán bộ tỉnh Cao Bằng tại làng Nặm Quang (Trung Quốc). Ngày 28/01/1941, cùng về nước với Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Tại hội nghị lần thứ tám Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương họp tại Khuổi Nặm (Pác Bó), ông được bầu làm ủy viên Trung ương Đảng, được cử về khu căn cứ Bắc Sơn lãnh đạo Cứu quốc quân. Tại căn cứ địa Bắc Sơn dưới sự lãnh đạo của ông, lực lượng Cứu quốc quân được củng cố, tổ chức nhiều cuộc chống càn quét, bao vây của kẻ thù, bảo vệ dân, bảo vệ căn cứ nhưng trước lực lượng tấn công đông gấp bội của kẻ địch tháng 8/1941, Cứu quốc quân đã tiến hành cuộc phá vây, rút về căn cứ địa Cao Bằng để bảo toàn lực lượng. Đến Khau Pàn (thuộc huyện Ngân Sơn, tỉnh Bắc Cạn) địch xiết chặt vòng vây, ông đã anh dũng chốt chặn, bảo vệ phía sau cho đồng đội thoát vòng vây, ông bị thương nặng, bị địch bắt. Kẻ địch hèn hạ chặt đầu ông bêu ở đầu cầu Ngân Sơn. Sau hòa bình hài cốt của ông được đưa về nghĩa trang Bắc Kạn, sau đó dời về nghĩa trang Mai Dịch. Năm 2003, ông được Chính phủ nước Việt Nam ra quyết định truy phong là cán bộ quân đội cấp tướng. Năm 2010 tôi đến Nghệ An, Chủ tịch tỉnh Hồ Đức Phớc đưa tôi về xã Diễn Yên, quê hương Phùng Chí Kiên, khu tưởng niệm ông đã được Nhà nước đầu tư xây dựng trên một khu đất rộng, tưởng nhớ công lao to lớn của ông với Đảng, với dân tộc.

Đồng chí Lê Quảng Ba: (người đứng sau Bác Hồ, vai khoác bao ruột tượng). Ông tên thật là Đàm Văn Mông, sinh ngày 21 tháng 4 năm 1915 tại bản Nà Nghiềng, xã Sóc Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng, tham gia Cách mạng từ năm 1931. Năm 1940, hoạt động tại huyện Tịnh Tây (Trung Quốc). Ông có công lớn đưa 40 cán bộ Cao Bằng đang “nương nhờ” Trương Bội Công – viên tướng của Tưởng Giới Thạch về làng Nặm Quang dự lớp huấn luyện do Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc tổ chức. Về nước cùng Bác Hồ ngày 28/01/1941, ông là người tổ chức bảo vệ, lo hậu cần cho Bác và các đồng chí cán bộ Cách mạng. Đặc biệt trong thời gian diễn ra hội nghị lần thứ tám Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam ông đã tổ chức bảo vệ tuyệt đối an toàn, góp phần vào thắng lợi to lớn của hội nghị. Từ sau ngày Cách mạng thành công (1945) ông vào quân đội lần lượt đảm trách những chức vụ quan trọng: Chỉ huy trưởng Chiến dịch Thập Vạn Đại Sơn, giúp Trung Quốc giải phóng vùng Đông Bắc, Tư lệnh trưởng quân khu Việt Bắc (1949); ông là Đại đoàn trưởng đầu tiên của Đại đoàn 316 (1951). Năm 1960, ông là Trưởng ban dân tộc của Chính phủ. Ông là ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam khóa III, Đại biểu Quốc hội từ khóa II đến khóa VI. Năm 1958, ông được phong hàm Thiếu tướng. Năm 2015, kỷ niệm 100 năm ngày sinh của ông, ông rất xứng đáng được tôn vinh.

Đồng chí Đào Thế An: (người cầm gậy, đeo ba lô sau lưng). Đây là “nhân vật” có nhiều bí ẩn. Sách vở ghi chép về ông rất hiếm hoi. Chỉ ghi tên là Thế An (không ghi họ) nên nhiều người nhầm với đồng chí Hoàng Thế An (tức Hoàng Thế Hậu) quê Đào Ngạn, Hà Quảng, một trong 34 chiến sĩ đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân. Tôi hoài nghi nên cất công đi tìm! “Đầu mối” đầu tiên là từ hồi ký của bà Nông Thị Trưng Những ngày sống cùng Bác – Sở Văn hóa – Thông tin Cao Bằng xuất bản năm 1990. “Đến tối thứ tư, tôi được tin báo, có đồng chí Quốc Vân và đồng chí Thế An (là em ruột phó lý Đoạt) đến gặp tôi. Tôi kể lại tình hình cho hai đồng chí nghe cả việc chung và sự rình mò của bọn tay sai” (trang 28). Như vậy, Thế An có người anh trai là phó lý Đoạt! Lại nữa, Giám đốc Bảo tàng Cao Bằng có cho tôi bản sao lý lịch đảng viên, lấy từ Bộ tổ chức, Ban chấp hành Trung ương Đảng. Người đảng viên có tên là Đào Mạnh Vi, sinh ngày 19/8/1916, bí danh Sô Liên, tại Cốc Xâu, Sóc Giang, Hà Quảng. Lý lịch ghi từng năm, xin trích “Năm 1940, bí mật đi sang Tầu, hoạt động bí mật ở Tầu, cùng các đồng chí về nước hoạt động trong nước. Năm 1942 vào đội du kích bảo vệ cơ quan Hồ Chủ tịch. Năm 1946 tham gia bộ đội Nam tiến, chiến đấu ở Trung bộ và Nam bộ. Năm 1950 là huyện đội trưởng huyện Trấn Biên”. Năm 1951, mất ở quê nhà lúc 35 tuổi.

Theo bản lý lịch thì Đào Mạnh Vi có thể là Đào Thế An, nhưng trong lí lịch không thấy ghi bí danh là Thế An mà chỉ ghi là Sô Liên. Tôi lên khu di tích Quốc gia đặc biệt Pác Bó tìm hiểu, được anh Thành, cán bộ khu di tích đưa tôi về Cốc Xầu, đến nhà anh Đào Trường Thọ (sinh năm 1972) nơi thờ cúng liệt sĩ Thế An. Tôi hỏi Đào Trường Thọ, “có biết phó lý Đoạt không? Anh Thọ trả lời: “Đó là ông ngoại tôi. Ông còn có tên là Đào Xuân Phục. Là anh trai Đào Mạnh Vi tức Thế An”. Như thế có thể khẳng định Thế An tức Đào Mạnh Vi. Hơn thế, Đào Trường Thọ còn đưa cho tôi xem tờ bằng Chủ tịch nước tặng Huân chương Kháng chiến (đã rất mờ) nhưng hàng chữ ghi tên người thì còn rất rõ: Tặng Huân chương Kháng chiến cho đồng chí Đào Mạnh Vi tức Thế An.

Vấn đề xác minh thế là đã rõ. Có thể Thế An mất sớm nên tên tuổi, thành tích không nổi, bị chìm đi.

Đồng chí Hoàng Văn Lộc (người đội mũ mềm, vai gánh hành lý). Hồi ký ghi ông là người “lo cơm nước” và bảo vệ Bác Hồ ở Pác Bó. Kháng chiến chống Pháp ông về An toàn khu Thái Nguyên tiếp tục nhiệm vụ bảo vệ Bác Hồ. Giám đốc An toàn khu Thái Nguyên – nghệ sĩ nhiếp ảnh Đồng Khắc Thọ, đã có bài viết kỹ về ông Hoàng Văn Lộc (mà bảo tàng Hồ Chí Minh bảo là Phạm Văn Lộc?!) đăng trên báo Tiền Phong số ngày 02/9 và 03/9/2014. Xin tóm tắt “Năm 1928, Nguyễn Ái Quốc đến Thái Lan lấy tên là Thầu Chín đã chọn Nguyễn Văn Ty (sinh năm 1900 tại huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình) đặt tên là Phạm Văn Lộc làm bảo vệ. Tháng 5/1940, Phạm Văn Lộc gặp lại lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc tại Côn Minh rồi cùng Người về nước, tham gia bảo vệ Bác Hồ ở Pác Bó.

Sau ngày toàn quốc kháng chiến, Phạm Văn Lộc trở về Khuôn Tát, dưới chân núi Hồng, ông bị sốt rét ác tính, bị bệnh đường ruột mất ngày 03/6/1948. Vào ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1949) các chiến sĩ bảo vệ, gúp việc tặng Bác Hồ bó hoa rừng. Người rơm rớm nước mắt bảo: “Mang hoa ra đặt trên mộ chú Lộc; Trong lúc khó khăn, gian khổ làm việc không chút nề hà, đến lúc nước nhà độc lập cũng không mảy may đòi hưởng thụ. Đó là phẩm chất của Phạm Văn Lộc”.

Đồng chí Đặng Văn Cáp: (người đi sau cùng). Ông tên thật là Đặng Văn Linh, sinh năm 1894 tại Can Lộc, Hà Tĩnh. Xuất thân trong một gia đình nho học yêu nước, nhiều đời làm nghề bốc thuốc, chữa bệnh, cứu người. Năm 1925 ông sang Thái Lan, cuối năm 1928 ông gặp Thầu Chín (lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc). Tháng 5-1940, Đặng Văn Cáp gặp lại lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc ở Vân Nam rồi theo Người về nước, vượt cột mốc 108 vào Pác Bó. Ở Pác Bó ông được giao nhiệm vụ in tài liệu và giao dịch, vận động bà con địa phương giúp đỡ lương thực. Cách mạng tháng Tám thành công, ông về Hà Nội chăm sóc sức khỏe cho Bác Hồ. Năm 1951, ông phụ trách trường thiếu sinh quân Việt Nam tại Quế Lâm. Năm 1957 về nước làm việc tại tỉnh Cao Bằng. Năm 1960 chuyển sang làm Chủ tịch Hội Y học dân tộc Việt Nam. Ông là Đại biểu Quốc hội khóa II, khóa III. Ông mất ngày 22/02/1984, thọ 90 tuổi, an táng tại nghĩa trang Mai Dịch.

*

Pác Bó ngày nay đã đổi khác nhiều. Nhà trưng bày Pác Bó xây dựng khang trang. Ngay tiền sảnh bức phù điêu mô tả ngày Bác Hồ về nước được “cóp” từ bức tranh của họa sĩ Trịnh Phòng, nhưng đã bị biến dạng đến mức khó nhận ra! Trong phần trưng bày giai đoạn 1941-1945, một lần nữa bức tranh Bác Hồ về nước bị “cóp” và “biến dạng”. Từ năm 2015 tôi đã nhiều lần góp ý kiến để “sửa chữa”. Tôi đã cho số điện thoại họa sĩ Trịnh Dũng, con trai họa sỹ Trịnh PHòng ở thành phố Hồ Chí Minh đề nghị họa sĩ Trịnh Phòng chỉ đạo vẽ lại bức tranh Bác Hồ về nước từ nguyên bản (có chữ ký của họa sĩ Trịnh Phòng). Họa sĩ Trịnh Phòng đã thực hiện hoàn thành bức tranh đó, nhưng không hiểu sao Bảo tàng Pác Bó không lấy về trưng bày. Tôi thật sự buồn. Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã viết: “Tôi muốn nói một vài điểm về vấn đề cụ thể thuộc thực tế lịch sử. Như cái giường nằm của Bác chẳng hạn cần sửa lại cho đúng với thực tế lịch sử. Bởi vì lịch sử là lịch sử, khoa học là khoa học, phải khách quan. Cho nên làm lịch sử là một lần và nó còn đó, còn viết lịch sử thì có thể viết đi viết lại, viết đúng thì người ta để, viết không đúng thì người ta viết lại, có thể viết nhiều lần”. (Bác Hồ với nhân dân các dân tộc Cao Bằng, trang 26).

Đón Xuân Tân Sửu, nhớ Bác Hồ và những vị tiền bối cách mạng, ta nhớ về một thời “Cháo bẹ, rau măng” làm nên lịch sử để tiếp tục tin tưởng và nhiều hứng khởi sáng tạo thêm nhiều tác phẩm mới có giá trị vì nhân dân, vì tổ quốc.

Nguồn Văn nghệ số 6+7+8/2021

    

        

 

 


Có thể bạn quan tâm