April 20, 2024, 9:10 pm

Ngôn ngữ lệch chuẩn như là sự thử thách năng lực sáng tạo

 

Ngôn ngữ nào cũng đều có những hệ thống quy tắc, quy ước chặt chẽ. Đó là trật tự mà mọi người khi sử dụng đều phải tuân thủ. Đặc biệt, ngôn ngữ chuyên ngành có những đặc thù riêng. Chẳng hạn:

- Ngôn ngữ giao tiếp.

- Ngôn ngữ thông tấn báo chí.

- Ngôn ngữ sư phạm.

- Ngôn ngữ tôn giáo.

- Ngôn ngữ ngoại giao.

- Ngôn ngữ khoa học.

- Ngôn ngữ văn học nói chung và thơ nói riêng…

Mỗi loại ngôn ngữ đều có nét chung phổ quát đồng thời có nét đặc thù riêng, luôn tạo lập sự ổn định cần thiết, đó là những chuẩn mực thượng tôn. Duy chỉ riêng ngôn ngữ thơ là có sự “lệch chuẩn” mà các loại ngôn ngữ khác đều không được phép.

 Xin nêu một số ví dụ:

  1. Người đi mỏi phố

mùa chưa cúc

 (Hải Từ)

Đi bộ trên hè phố, đi nhiều thì mỏi chân, sao tại "mỏi phố" ?

  1. Đàn cừu đi giữa tung tăng

Làm hương cỏ rối dậy hăng núi đồi

                        (Trên Cao Nguyên - Lê Đình Cánh)

Cừu ăn cỏ, chúng đi, chạy tung tăng giữa thảo nguyên chứ, sao lại "giữa tung tăng"?

  1. Ai tình tứ cho cả chiều bờ ngỡ

Liền chị xa biền biệt nỗi giăng mùng.

 (Một chút giăng mùng - Phan Quế)

Đi xem hội Xuân, lạc vào vùng quan họ, chị đã bén hơi yêu, về nhà nhớ vụng, thương thầm. Ban ngày chắc là bận rộn công việc, chỉ đến đêm, lúc giăng mùng đi nằm mới thao thức nỗi thương thầm thì mới phải, sao lại "'nỗi giăng mùng?

  1. "Chúng mình định mệnh vào nhau

Bằng bao hạnh phúc, bằng bao ngậm ngùi"

 (Chiều thứ tư - Nguyễn Văn Hàm)

Do định mệnh mà hai chúng mình được gắn kết vào nhau, sao lại "định mệnh" vào nhau?

Những câu thơ trên đây về trật tự thông thường của ngữ nghĩa có vẻ như không ổn, thế nào ấy, cứ như của người nước ngoài mới học tiếng Việt, diễn đạt vụng về? Khi thì hai danh từ bị đặt nhầm vị trí của nhau (thí dụ 1); khi thì trạng từ đặt vào vị trí của danh từ (td2); khi thì động từ đặt vào vị trí cửa danh từ (td3); khi thì danh từ đặt vào vị trí độngtừ (td4)...

Nhưng thử xem lại, đây có phải sự nhầm lẫn không.

Thí dụ 1, xin chép lại cả bài:

Vàng thu

Lác đác hoàng lan

lất phất thu

Hồ run mặt sóng

thoảng sương mù ,

Người đi mỏi phố

mùa chưa cúc

Sắc áo vàng kia

nở sớm ư?

Không có chữ anh, em nào nhưng vẫn hiển hiện là bài thơ tình. Trong tâm trạng của người đang yêu, đang mong đợi nên cảm nhận về ngoại cảnh có khác: lất phất thu, hồ run... tức là ngoại cảnh đã hòa với nội tâm. Hai câu trên đã chuẩn bị cho câu thứ ba xuất hiện: đường phố đã đồng cảm với con người,vậy người đi mà cảm thấy "mỏi phố", tưởng phi lý mà rất hợp lý. Nhờ hai câu trên, lôgich hình thức đã chuyển qua lôgich nội dung. "Mỏi chân" là lôgich hình thức; "mỏi phố" là lôgich nội dung. "Mỏi chân" là cảm giác của người... bộ hành; "mỏi phố" là cảm giác của người tình thơ. Cái sự "đặt nhầm vị trí" này là một sáng tạo bất ngờ, là điểm sáng của bài thơ, mang lại cho tác giả giải cao nhất cuộc thi thơ tứ tuyệt Tài Hoa Trẻ lần thứ nhất 1996-1998.

Ở thí dụ thứ 2, giữa thảo nguyên mênh mông, ngắm đàn cừu, nhà thơ vui như chính mình được chạy nhảy tung tăng với chúng, trẻ lại, hồn nhiên, ngây thơ như... con cừu. Trong tâm trạng ấy, nhà thơ có "đặt nhầm" vị trí từ loại thì cũng là cái "nhầm đáng yêu" làm cho câu thơ đẹp hơn, hay hơn. Thơ là hiện thực được phản ánh qua tâm trạng nhà thơ. Chữ "tăng tung" thể hiện được điều ấy.

Ở thí dụ 3, "xa biền biệt" thì chuyện "thương thầm" là quá hiển nhiên! Nhà thơ viết "nỗi giăng mùng" hình ảnh này gây ấn tượng, xao động tâm tư, gợi nhiều liên tưởng: giăng mùng, trải chiếu thường nghĩ đến chụyện lứa đôi, hạnh phúc, đằng này lại xa biền biệt, "hoàn cảnh" quá!

Ở thí dụ 4, không cần dùng chữ "gắn kết" mà được gắn kết nhiều hơn qua chữ "định mệnh". Chữ này có tỉ trọng lớn bởi nó gắn với số phận, với triết lý nhân sinh, đặt vào đây làm cho câu thơ trở nên nặng ký.

Xin dẫn thêm một số câu thơ "nhầm lẫn sáng tạo" khác.

Tính từ đặt vào vị trí của danh từ:

                            Tôi đong thêm mấy hao gầy

                           Mở ngày tháng đế chất đầy tương tư

 (Khúc dịu êm - Đỗ Trung Lai)

Danh từ đặt vào vị trí của tính từ:

Không dưng chiều trở gió

Nắng đã mùa xa xôi

Tóc người còn hong đó

Giờ đã buồn sang tôi

(Gương mặt - Nguyễn Đức Hạnh)

Ngỡ không thơm nữa trăng ngày cũ

Cuối ngõ khuya về bưởi mới hương

(Hương muộn - Lương Hữu)

Đoạn thơ sau đây của một nhà thơ cao tuổi, ông khéo "phá trật tự", hoán đổi vị trí từ loại làm cho thơ hồn nhiên mới mẻ:

Hạt mưa chèo bẻo

Nhặt nắng xiên khoai

Hạt mưa hoa nhài

Tàn đêm kỹ nữ

Hạt mưa sành sứ

Vỡ gạch Bát Tràng

Mưa gái thương chồng

Ướt đầm nắng quái

Sang đò cạn sông

(Mưa - Hoàng cầm)

Đoạn thơ này gợi nhớ câu ca dao: Thân em như hạt mưa sa/ Hạt vào vườn cải, hạt ra vườn đào/ Thân em như hạt mưa rào /Hạt ra đồng cỏ, hạt vào đồng hoa/ Thân em như hạt mưa sa. Trong đoạn thơ trên, Hoàng cầm khéo thay đổi hình ảnh mưa quen thuộc mưa sa, mưa rào thành những hạt mưa khác lạ, mỗi hạt mưa này lại đi kèm một danh từ (chèo bẻo, hoa nhài, sành sứ) và cụm từ (gái thương chồng). Qua những hình ảnh hạt mưa mới lạ ấy, người con gái hiện lên với cảnh ngộ khác với câu ca dao xưa nhiều lắm. Họ đã bắt đầu ý thức được cuộc vận động đổi đời. Vẫn là thân phận hạt mưa đấy, nhưng họ có thể chủ động lựa chọn ở chừng mực nhất định. Bởi thời nào cũng vậy, người phụ nữ vẫn gánh chịu sự thiệt thòi về phận giới. Ở đây có bóng dáng "hạt mưa" rơi vào vườn cây thôn dã, có tiếng chim chèo bẻo chia sẻ buồn vui, có "hạt mưa" lạc ra phố thị với hương hoa nhài tàn đêm kỹ nữ, có "hạt mưa" làm lụng vất vả đêm ngày đất, lửa sành sứ... Rồi "hạt mưa" bận bịu chồng con, sang đò cạn sông. Có lẽ là dòng sông nước mắt khóc cạn đó sao? vẫn là những số phận, những cảnh ngộ, tâm trạng mà nhà tho không thể thờ ơ.

Nhờ có sự lao động thơ công phu, đầy sáng tạo ấy, Hoàng Cầm đã đưa những hạt mưa thân phận đến với những nội dung mới, gắn với sự chuyển động của cuộc sống. Ở đây hình ảnh đã được nâng cấp lên thành những hình tượng.

Hóa ra những thí dụ vừa nêu trên không phải do "vụng về, nhầm lẫn", mà chính là những thủ pháp nghệ thuật cao cường. Mỗi lần độc chiêu này được tung ra là tạo nên tia chớp lóe đủ làm ta giật mình gây ấn tượng và tác động mạnh. Trước hết nó tạo nên sự bất thường, mới lạ; nó xóa đi cái trật tự quen thuộc đễ gây nhàm chán. Trong tác phẩm văn học, sự nhàm chán là điều tối kị, dễ khai tử cho tác phẩm ngay từ lúc tác phẩm vừa mới lọt lòng. Thứ hai, những từ ngữ khi được chuyển dịch vị trí, nó tạo nên phản ứng mới, hình thành cụm từ mới trong một tập hợp mới. Nhờ vậy nó chứa đựng nhiều năng lượng bùng phát mà trước đó bị mai một theo thời gian. Thứ ba, cô đọng, hàm súc nói ít, gợi nhiều.

Trong hội họa cũng có hiện tượng tương tự đó chăng? Vẽ không thật giống mà lại giống hơn thật. Thật ở cái thần hồn, thần thái. Chẳng hạn như họa sĩ Bùi Xuân Phái, ông vẽ phố Hà Nội, hầu như chả hình ảnh nào "chuẩn xác". Từ cái cột đèn, bức tường, mái ngói đến chiếc xe xích lô, xe đạp, con người... thảy đều xiêu lệch nghiêng ngả như trong cơn say. Như thể ông vẽ trong mơ... Nhưng lạ lùng sao, chính những hình ảnh xiêu lệch kia nó lại hút hồn người xem và ám ảnh không nguôi. Phải chăng là bậc kỳ tài mới tạo nên được những tác phẩm như vậy. Các nhà thơ lớn của Việt Nam nói chung họ đều có những sáng tạo độc đáo làm nên “thương hiệu” riêng. Sinh thời, nhà thơ Xuân Diệu có lúc nói vui: “chiều lỡ thì” là made in Xuân Diệu (Nắng nhỏ bâng khuâng chiều lỡ thì”; còn “gió thất tình” là made in Nguyễn Bính (Gác trọ còn nguyên gió thất tình), đừng anh nào cầm nhầm nhé.

Rất mong mỗi nhà thơ có nhiều những câu thơ “thương hiệu” như thế để mỗi người là một thế giới sáng tạo riêng, không lẫn vào nhau được…

Quy luật vận động của ngôn ngữ luôn gắn với quy luật vận động của đời sống: trật tự luôn được định hình và luôn bị phá vỡ để thiết lập trật tự mới. Trên đây là tôi chọn những câu thơ hay làm ví dụ cho những thành công trong sáng tạo ngôn từ còn những ví dụ cho sự thất bại thì ta thường gặp đây đó quá nhiều. Còn như những trường hợp không lao động sáng tạo ngôn từ chi cả, tác giả vẫn chỉ dùng những ngôn ngữ giao tiếp thông thưởng, những ngôn ngữ chuyên ngành đã cũ mòn để đặt thành “thơ”, đọc lên thấy chung chung, thiếu hồn vía, tinh thần, câu thơ dễ thành nhạt nhẽo tầm thường, đó là những bằng chứng của sự thất bại.

Tất cả các loại ngôn ngữ đều phải chuẩn xác, duy nhất có ngôn ngữ thơ được phép lệch chuẩn, điều này là cơ hội thuận lợi cho thơ đồng thời cũng lả thử thách, trách nhiệm của các nhà thơ. Trong trách nhiệm thẩm mỹ, có trách nhiệm làm mới, làm phong phú, làm đẹp ngôn ngữ dân tộc. Tuy nhiên sự "lệch chuẩn" này giống như con dao hai lưỡi, nó có thể phá vỡ, làm hỏng bài thơ cũng có thể đưa bài thơ lên đỉnh vinh quang chói sáng. Khoảng cách giữa thất bại, thành công chỉ bằng nửa đường kính sợi tóc, đây phải chăng là sự thử thách năng lực sáng tạo của nhà thơ?

 

Nguồn Văn nghệ số 28/2019


Có thể bạn quan tâm