April 24, 2024, 12:53 pm

Ngày xuân tìm hiểu vẻ đẹp của đờn ca tài tử Nam Bộ

Từ độ mang gươm đi mở cõi

Trời Nam thương nhớ đất Thăng Long

                                                (Huỳnh Văn Nghệ)

“Tháng giêng là tháng ăn chơi” (ca dao) khắp cả nước diễn ra nhiều lễ hội rộn rã, tươi vui. Nếu ở nông thôn miền Bắc thường vang lên tiếng trống chèo, miền Trung tiếng hô Bài chòi thì ở miền Tây Nam bộ lại vang lên tiếng đàn cò, đàn kìm đệm cho những bài ca tài tử, vọng cổ. Bên ly rượu, chung trà ngày xuân ta hãy ngược dòng lịch sử để hiểu thêm về đờn ca tài tử Nam bộ, một loại hình nghệ thuật văn hóa phi vật thể đã được Unesco xác nhận và tôn vinh.

Đờn ca tài tử Nam bộ được hình thành vào những thập niên đầu của thế kỷ XX. Đây là dòng âm nhạc phong phú, đậm bản sắc dân tộc của vùng sông nước Nam bộ, có nguồn gốc sâu xa từ nhạc cung đình và nhạc dân gian của miền Bắc trước đây.

Đờn ca tài tử là sinh hoạt không thể thiếu trong các buổi họp mặt của người dân miền Tây

Khi ông cha ta tiến về phía Nam mở đất, các nghệ nhân từ miền Bắc và miền Trung vào theo để khai hoang lập nghiệp. Bên cạnh những dụng cụ để khẩn hoang như con dao, chiếc rựa, cây cuốc... họ còn mang theo chiếc đàn tranh, đàn bầu, đàn nguyệt (còn gọi là đàn kìm) để sau những giờ phút lao động vất vả, họ lại dạo khúc Nam bình, điệu Nam ai hay bài Tứ đại cảnh, hòng vơi đi nỗi nhớ quê... Cũng từ cơ sở ấy nền nhạc lễ miền Nam hình thành. Tuy vẫn sử dụng các bài trống, những bản nhạc cung đình của miền Bắc, miền Trung nhưng “hơi nhạc” ngày càng được cách tân. Sự đổi mới này bước đầu phản ánh tinh thần phóng khoáng của cư dân vùng đất mới Nam bộ. Đờn ca tài tử Nam bộ được hình thành và phát triển từ nền nhạc lễ ấy.

Vào những năm 1930, Đờn ca tài tử Nam bộ đã phổ biến khá rộng ở miền Nam. Từ Đồng Nai xuống tận Gò Công, xuyên qua Tiền Giang, lan rộng tới tận miệt Bạc Liêu, Cà Mau... Nơi đâu ta cũng thấy vang lên giọng hát, tiếng đàn, nơi đâu cũng có những nhạc sĩ tài hoa với những ngón đàn điêu luyện. Lúc bấy giờ ở Tiền Giang có nhóm của nhạc sĩ Lê Lợi Trinh. Ở Sài Gòn, Đồng Nai có nhóm của ông Ba Đợi, Hai Biểu, Ba Khuê. Ở Bạc Liêu có nhóm của ông Nhạc Khị, Ba Chột, ông giáo Vạn, ông Sáu Lầu. Ở Cần Thơ có nhóm của ông Sáu Hóa, Cò Quốc, Văn Chính (Chín thợ Bạc)... Có thể khẳng định đại diện cho Đờn ca tài tử miền Đông Nam bộ là ông Trần Quang Đại (Ba Đợi), đại diện cho Đờn ca tài tử miền Tây Nam bộ là ông Lê Tài Khị (Nhạc Khị và ông Trần Quang Huần (Ký Huần) và sau cùng là ông Cao Văn Lầu (Sáu Lầu).

Ở giai đoạn đầu trước năm 1945, các nhạc sĩ chỉ dùng các nhạc cụ thuần túy dân tộc như: đàn tranh (thập lục), đàn cò (nhị), đàn kìm (nguyệt), sến, đoản để đệm cho người ca. Sau 1950 thì có thêm một số nhạc cụ phương Tây được cải tiến như: guitare hạ-uy-di và vi-ô-lông... Nhờ thế mà Đờn ca tài tử Nam bộ ngày càng phong phú, nét nhạc dân tộc càng được phát huy. Một nhạc sĩ dù đã có ngón đàn tài hoa nhưng vẫn phải thường xuyên luyện tập để làu thông bài bản, hoặc ít nhất cũng phải thuộc lòng được 20 bản tổ. Đó là 3 bài Nam, 6 bài Bắc, 4 bài Oán và 7 bài Bắc lớn. Nhiều người còn thuộc cả Thập thủ liên hoàn (10 bài thủ), Bát ngự (8 bài ngự), Tứ bửu (4 bài dâng vua).

Điều đặc sắc cũng là cái khó nhất của Đờn ca tài tử Nam bộ là người đệm đàn phải thuộc lòng các bài bản, chớ không được để bản nhạc trước mắt mà đàn như các nhạc sĩ tân nhạc. Do đó mỗi người đàn mỗi vẻ. Cùng hòa bản Xuân tình (thuộc 6 Bắc), hoặc bản Tứ đại (trong 4 Oán), chỉ những chỗ nhịp chánh hoặc dứt mỗi câu, thì tiếng đàn của họ mới nhập cuộc với nhau. Còn các khoảng nhịp phụ thì mỗi người đàn theo tùy hứng của mình. Ngón đàn cao thấp, thể hiện chỗ tài hoa của mỗi nhạc sĩ là ở chỗ ấy.

Một điều đặc biệt nữa là khi có hai ban nhạc tài tử của hai địa phương khác nhau, hoặc hai nhạc sĩ mới gặp nhau lần đầu, họ thường thử tài về ngón đàn. Trước hết là họ thử nhau về làu thông bài bản. Lúc đầu họ hòa với nhau những bài ngắn và dễ như 6 Bắc và 3 Nam, rồi 7 bài... Trong quá trình hòa tấu, các nhạc sĩ luôn đem những ngón đàn lạ, hiểm hóc, hoặc đàn chỏi nhịp để cố tình thử đối phương. Ngoài ra người đàn và người ca khi gặp gỡ lần đầu cũng tìm cách thử tài nhau. Người ca thì lựa những bài dài, khó để thử người đàn. Người đàn thì đàn mắc mỏ để thử người ca. Nhưng khi biết được tài nghệ của nhau thì họ ôm nhau tâm tình, cùng chia ly rượu nồng thắm. Nhờ cách tranh tài cao thấp ấy, mà từ người đàn đến người ca, ai cũng phải thường xuyên trau luyện ngón đàn, lời ca của mình. Đó cũng là yếu tố để đưa Đờn ca tài tử Nam bộ ngày càng cải tiến và nâng cao.

Một yếu tố quan trọng khác để phát triển nghệ thuật Đờn ca tài tử Nam bộ là cách trình diễn của mỗi ban nhạc. Người có khả năng vượt trội trong nhóm được phong là đàn chánh. Người này như một nhạc trưởng, có trách nhiệm giữ song lang (loan) để điều khiển ban nhạc. Các tay đàn phụ phải đàn theo trường canh của đàn chánh. Nghĩa là khi đàn chánh muốn đàn mở ra, hay thúc vào thì người đàn phụ phải đàn theo cho thật ăn khớp. Nếu ban nhạc có nhiều nhạc cụ như: tranh, cò, kìm, sến, guitare lõm, violon... thì người ta thường kết hợp sắp xếp thành bộ ba: tranh, cò, kìm thành một nhóm, guitare, violon, sến thành một nhóm. Sắp xếp như thế là dụng ý để tiếng và tiếng đồng hòa hợp với nhau, và cũng để loại đàn kéo và đàn gẩy kết giao với nhau. Cách phối khí như thế lúc nào cũng được người đàn tôn trọng. Đặc biệt trong lúc hòa tấu, phải có lúc khoan lúc nhặt. Tiếng đàn này nhỏ lại thì tiếng đàn kia lại nâng bổng lên, làm cho tiếng nhạc có khi xoắn xuýt, hòa quyện vào nhau, có lúc như đuổi bắt nhau, khi nhanh khi chậm, lúc vui lúc buồn tôn thêm vẻ đẹp của lời ca.

Khi nhạc phương Tây xâm nhập vào Việt Nam và phát triển mạnh thì Đờn ca tài tử Nam bộ bị lắng xuống một thời gian dài. Ngày nay, Đảng ta chủ trương phát huy vốn cổ, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, nhất là sau khi có Nghị quyết Trung ương V, khóa VIII của Bộ Chính trị thì Đờn ca tài tử Nam bộ lại khởi sắc. Mấy năm gần đây từ Trung ương đến các địa phương Nam bộ đều có tổ chức các cuộc thi Đờn ca tài tử Nam bộ theo lối ca ra bộ, nghĩa là vừa ca vừa làm điệu bộ. Đờn ca tài tử Nam bộ đã có lịch sử phát triển đáng tự hào.

Trong năm 2003, đài Truyền hình Việt Nam VTV3 đã phối hợp với Tạp chí Thế giới mới mở cuộc thi về Sáng tác lời mới cho 20 bản tổ đã đạt kết quả tốt. Tháng 8/2007, tại tỉnh Long An diễn ra hội thi Đàn ca tài tử toàn toàn quốc lần thứ II, quy tụ hơn 200 diễn viên, nghệ sĩ yêu thích Đờn ca tài tử Nam bộ từ khắp các miền của Tổ quốc. Và từ 2008 đến nay hầu như năm nào cũng có các cuộc thi ở các địa phương, khu vực hay toàn quốc về Đờn ca tài tử Nam bộ. Từ ngày 24/4/2014 đến ngày 29/4/2014, tại Bạc Liêu đã diễn ra Festival Đờn ca tài tử quốc gia lần thứ Nhất với chủ đề Tình người, tình đất phương Nam với 21 hoạt động chính diễn ra trên khắp địa bàn thành phố Bạc Liêu, quy tụ trên 400 nghệ nhân và nghệ sĩ của 21 tỉnh, thành phố Nam bộ tham gia các chương trình nghệ thuật. Nội dung của các hoạt động diễn ra tại Festival thật sự sôi động, đặc sắc, ấn tượng, mang đậm chất Nam bộ; vừa thể hiện nét riêng của tỉnh Bạc Liêu - quê hương bản Dạ cổ hoài lang - nơi đang bảo tồn và lưu giữ nghệ thuật đờn ca tài tử Nam Bộ.

Đờn ca tài tử Nam bộ là món ăn tinh thần không thể thiếu được của cư dân vùng sông nước. Cũng như chèo ở miền Bắc, hát bội ở miền Trung, thì Đờn ca tài tử Nam bộ là hơi thở, là máu thịt, đậm tính nhân văn của một vùng sông nước giầu hoa trái và trí dũng.

Nguồn Văn nghệ số 6/2020


Có thể bạn quan tâm