April 19, 2024, 8:21 am

Một giọng thơ Mường trong thế giới phẳng*

Anh Đinh Đăng Lượng thân mến! Anh cho phép tôi được viết về tập thơ này như đang trò chuyện với anh. Hôm ấy gặp lại anh, tôi mừng lắm. Hơn bốn mươi năm đã trôi qua. Tôi biết anh đã là thường vụ tỉnh ủy của tỉnh nhà, phụ trách công tác tổ chức và điều tôi thích thú nhất là anh vẫn bền bỉ làm thơ.

Không phải là ông cán bộ tổ chức làm thơ mà là ông nhà thơ làm công tác tổ chức. Và tôi đoán: việc thông hiểu tâm hồn con người của nhà thơ chắc chắn giúp ích nhiều cho việc chọn người tài của ông làm tổ chức cán bộ. Tôi đọc tập bản thảo này, và các tập đã in anh gửi kèm theo đây, thấy thơ anh ngày càng hoàn thiện và đã phát triển theo hướng mà anh đã bộc lộ ngay từ tập thơ đầu, thuở in chung ba tác giả. Hồi ấy, tỉnh kép Hà Sơn Bình chọn ba anh, anh Đào Ngọc Chung, Hà Đông, anh Thế Mạc, Sơn Tây và anh, Hòa Bình, xếp ngồi chung một cỗ. Ấy là tập thơ Hội cồng mùa xuân, xuất bản  năm 1978, do chính Cụ Trần Lê Văn biên tập. Anh được xếp đầu tập, có lẽ do phong vị Mường của thơ anh gợi nên cái tên của tập thơ. Tôi được nhờ viết giới thiệu cả ba anh.    

Ngày ấy, về anh, tôi có viết: Đinh Đăng Lượng là một kỹ sư, cách nghĩ cách nói của anh đã vượt qua sự hồn nhiên bản năng để đến với sự phong phú của trí thức. Đinh Đăng Lượng không lạm dụng chất liệu hoặc cách diễn đạt của thơ ca truyền thống Mường. Trong thơ anh người đọc không vấp phải nhiều những thứ thổ cầm văn chương đã mòn vẹt đi vì truyền tay qua quá nhiều người làm thơ, mà trong đó phần lớn lại là các bạn thơ người Kinh, khi viết về dân tộc ít người. Anh Lượng ạ, tôi đọc lại, có hơi ngượng vì giọng khẳng định hung hăng của mình hồi ấy, nhưng về ý kiến thì, giờ đây, tôi vẫn giữ. Tôi đọc trong tập bản thảo mới tinh này, xin trích ba trong năm đoạn của bài thơ Mùa đi: Bằng vai, phải lứa chẳng còn ai/ Rét giêng hai lắt lay mùa cấy/ Vườn trút lá, chồi non run rẩy/ Lom khom đôi bóng chân cầu thang/ .../ Ba mặt con vừa tròn sáu cháu/ Thương vài cuốn sách viết mỏng tang/ Ba gian cơi nới còn in dấu/ Cưới xin, giỗ chạp họ khắp làng/ …/ Mùa đi không ngại ngần già trẻ/ Được-thua muôn thuở mặc cõi trần/ Lòng mơ hồ biết mình cũng thể/ Vẫn thấy quê nhà đã cuối xuân.

Trong cuộc nhìn lại đời mình, ông già xứ Mường này có khác gì mọi ông già người Kinh dưới đồng bằng và mọi ông già nhân loại. Giống nhau những chi tiết đánh dấu đời người (bạn bè cùng lứa, con cháu hậu duệ, họ hàng, giỗ tết, sự nghiệp, gia tài, và cả cái chung cuộc nữa…). Nhất là cái giọng hoài niệm bâng khuâng trong câu kết man mác dư ba, cõi lòng lưu luyến trong veo. Cách thể hiện bài thơ cũng khá hoàn chỉnh. Nó đã đến được cái nơi cần phải đến trong đề tài này, trong tâm trạng này. Vẻ đẹp cổ điển này là một đóng góp có ý nghĩa của hình thức cho nội dung. Nó cho thấy tư thế tâm hồn của tác giả, ung dung thanh thản, hài lòng, chủ động về những gì mình đã trải, đã làm. 

Anh Lượng ơi,

Hơn nửa thế kỷ trước tôi có được đọc mấy ý kiến về thơ anh Nông Quốc Chấn, một tác giả chúng ta được học trong trường trung học (bài Dọn về làng) và sau này là người anh hiền, thân thiện với chúng ta. Thơ anh được nhận xét là có khuynh hướng Kinh hóa. Tôi thấy nhận xét ấy đúng. Anh Nông Quốc Chấn là nhà thơ dân tộc Tày nhưng anh còn là thứ trưởng Bộ Văn hóa lo việc trong phạm vi cả nước, sống ở thủ đô, nhiều dịp với bạn bè quốc tế. Hỏi sao mà anh không “Kinh hóa” được. Đúng ra là “Việt Nam hóa”. Rồi có thể còn “thế giới hóa” ấy chứ, nếu anh Chấn đọc nhiều thơ nhận loai. Nhận xét có lý nhưng bao hàm một tiếc nuối hay phê phán, tôi e trái tự nhiên. Các nhà thơ dân tộc ít người, ở cái thời buổi thế giới phẳng, giăng mắc dày đặc mạng lưới viễn thông, chúng ta có thể tìm ngay được người cần tìm trong bảy tỷ người của hành tinh. Làm sao lại phải tự hãm mình quanh quẩn trong phạm vi một cái xóm hẻo lánh và ăn nói như thuở xưa? Tính dân tộc, phong vị giọng điệu một tâm hồn, đều có nhu cầu phát triển. Đừng bắt nó bất biến. Cũng đừng quá sợ nó mất đi mà cố tình níu lại. Tưởng nó mất đi nhưng thực ra nó lặn vào đâu đó. Anh cứ hồn nhiên viết là nó còn. Nhà phê bình cần có phát hiện ra nó ở thang nấc mới. Tôi nghĩ anh Lượng cứ hồn nhiên viết. Cắt hạc ngắn chân thì nó què, nó chết chứ hay gì!

Vả lại, tôi đã thống kê, nhưng thấy không cần chép ra đây, cái phong vị Mường của thơ anh, ở dạng nguyên liệu thơ (thi liệu - gồm cả lịch sử, huyền sử, điạ dư...), ngôn ngữ, phong tục, tâm linh, tấm lý... Đọc lên là thấy ngay. Không ít đâu. Điều đáng nói chỉ là: để tự nó đến đừng cố tình bày ra. Vía người, hồn chiêng là chủ chốt thì đều thuộc về cảm nhận có bày ra cũng chả được. 

Anh có một mạch hiện thực mà lại rất tình cảm, rất khơi gợi. Ấy là những đổi thay do xây dựng, do phát triển. Bản chất nó là vui. Nhưng trong lòng người từng trải, do tuổi tác, do tự mình tham gia tạo tạc thì nó gợi nhiều nỗi niềm nhớ thương đằm thắm. Không nói ra hoặc không nói hết nhưng lại có sức ngân nga rất nội tâm. Nó là thơ của người trong cuộc. Người đọc cần nhập cuộc mới dễ cảm thông. Thí dụ ở vùng hồ Sông Đà: Con tàu trắng, biếc hồ sâu/ Phà xưa bến cũ biết đâu mà dò/ Đác Hoa, Khôông Rậm, Bến Bờ/ Nguồn sông núi ấy bao giờ cho nguôi.

Thí dụ ở thôn Thịnh Lang xưa, dấu vết trên đất đai và tiếng gà trưa Thịnh Lang trong thơ Xuân Diệu đủ làm ta xao xuyến khi chạm vào cái tên Thịnh Lang. Lại cái Dốc Cun. Ai từng buộc cành cây lòa xòa cho xe đạp lôi đi để giảm tốc khi lao dốc thuở chiến tranh, mới chia sẻ được với anh, anh Lượng ạ. Dấu vết của tuổi tác cho ta cái lộc đó. Nó là hành trang mỗi đời người. Thơ trọng hồn nhiên. anh cứ hồn nhiên ngỡ như ngẩng lên thấy được cây chu đồng huyền thoại thì thơ về chu đồng, mà thấy máy bay siêu thanh thì cứ siêu thanh mà viết. Dân tộc đâu phải ở cây chu đồng hay máy bay nhanh hơn tiếng động. Mà nó ở cái mắt thấy chu đồng cái tai thấy siêu thanh chứ. Nghĩa là nó ở anh chứ không phải ngoài anh. Tìm sâu vào mình thì ra dân tộc. Chân thật trong cảm xúc là đặc trưng của thơ dân tộc. Chất liệu hiện đại vào thơ anh là một cách nâng cao phong vị dân tộc, cập nhật thời đại cho phẩm chất dân tộc. Anh vui với những đổi thay đất vùng hồ sông Đà với lối sống Mường anh có phần khác trước. Anh hào hứng và tự tin đưa nó vào thơ như từng đưa cái chiêng ngày hội, cái cối giã gạo thuở nào mà tạo nên chất Mường của bây giờ. Đó là việc nên làm, cần làm. 

Tôi đã định viết một bài giới thiệu tập thơ này theo cung cách độc thoại  thông thường, phân tích thơ ca, bàn luận nghệ thuật. Nhưng gặp câu thơ anh viết trong bài thăm mộ Tản Đà Hậu sinh tóc đã mây trời, “Hậu sinh” là anh, đang ngồi bên tôi đây, mà mây trời thì... vi vu quá, xa xôi tận đâu! Rồi đọc bài về Đinh Nam Khương. Thấy khắc khoải anh ạ, bèn chọn cách này, cho có tính đối thoại. Trao đi đổi lại. Cùng có nhau. Vui hơn

Lần trước, hơn bốn mươi năm, thì tính tuổi cuốn Hội cồng... của các anh mà ra con số ấy, chúng ta còn đang là kẻ tìm đường cho thơ. Nay thơ đi đã thành đường, anh ngoài thất thập, tôi đã bát tuần, đá chưa hẳn đã mềm nhưng chân ta hình như có cứng cáp hơn xưa, thì ta bước tiếp. Phải không anh!

________

* Đọc tập thơ Bốn Mường của Đinh Đăng Lượng, Nxb Hội nhà văn 2020

Nguồn Văn nghệ số 37/2020 


Có thể bạn quan tâm