April 25, 2024, 2:34 pm

Mênh mang khèn xuân

Mỗi độ Xuân về, tiếng khèn “giảo” Quân lại rộn ràng nối nhịp, từng âm như nhả, như nuốt ngọt môi, từng động tác quay cuồng nghiêng ngả, người ta bảo thầy đang say, chẳng phải cái say của rượu ngô men lá mà là say khèn; khách đường xa cũng vậy, cũng ngả nghiêng mà say theo từng nhịp bước chân…

Lâu lắm, cũng chẳng biết từ bao giờ, cứ mỗi dịp Tết đến, Xuân về, nơi vùng Hồ Ba Bể hay các xã, huyện lân cận, người ta lại đợi tiếng khèn anh, lại ngóng những bước chân chắc nịch mà uyển chuyển đến lạ lùng của người trai Mông thôn Bản Nghè xã Cổ Linh, Pác Nặm của tỉnh Bắc Kạn. Dân bản xứ trìu mến gọi anh là “giảo” Quân, “giảo” là cách gọi thầy giáo của những người dân bản địa bởi anh vốn theo nghề gieo chữ; rồi nghe khèn, ngưỡng mộ mà người ta cấp phong thêm cho anh những: Quân “khèn”, “cao thủ khèn Mông” hay “thánh khèn”… nhiều, nhiều lắm. Song dường như anh chẳng quan tâm đến những chuyện đó, với anh, chỉ cần được khèn, được bung tẩy trong những điệu múa, được thỏa thuê đắm chìm trong những làn điệu dân ca Mông, được ngẫu hứng mà tấu lên những âm thanh của núi… thế đã là đủ.

Năm nào cũng vậy, khi những nụ đào còn chim chím trong cái lạnh giá của non cao, những mận mơ vừa kịp trắng đồi bung sắc cũng là lúc Lý Hồng Quân mang khèn ra chỉnh, những âm khèn khản trầm nghiêm nghị như lời người già, những thanh cao như gió vọt, những âm bè như tiếng suối đẩy đưa… rồi anh lại bất chợt trầm ngâm như đá mà ôm khèn ngồi bậu cửa nhìn hút lên mãi những đỉnh non. Người Mông gọi là đỉnh trời vì ở đó cao, ở đó mù sương, ở đó buốt giá, người Mông còn bảo là đỉnh đời vì ở đó chân đi mắt nhìn chẳng thấy, chỉ đá với đá, đi như thói quen, đi bằng con tim, đi bằng sự mách bảo của tâm hồn, đi như thân cây leo luồn trong giá rét; đời người Mông ai cũng phải leo, phải vượt lên, bởi đó, trong tâm thức người Mông, những đỉnh trời còn là những đỉnh đời; và ở đó, có thứ mềm mại, dịu dàng lắm lắm, có thứ làm đắm mê lòng người, ấy là những làn điệu dân ca Mông, ấy là tiếng sáo Mông luồn sương, tiếng khèn Mông trầm hùng chắc chắn, kiên cường như người Mông nơi sống núi gồ sương, những thanh âm dắt bước chân mà lần lên tận đỉnh. Để chinh phục được những đỉnh non không chỉ cần đến sức mạnh, kinh nghiệm, cơ trí mà còn cần hơn cả là những âm thanh núi rừng trong tiếng khèn của những chàng trai Mông, cần những câu hát, tiếng kèn lá của những cô gái Mông bên mom đá đợi bước chân người, “giảo” Quân từng nói với chúng tôi vậy.

Hôm nay, cũng như bao hôm khác, “giảo” Quân lại ôm khèn tựa cửa, song đôi mắt lung lắm, có sự khác, anh không nhìn lên những đỉnh non như mọi khi mà cứ nhìn mãi xuống đôi bàn chân chai sạn. Khách đến gần, gần lắm, khách ngồi, chủ vẫn mải miết ngẫm ngợi chẳng hay. Đứa gái chừng mười tám, đôi mươi kế bên phải lay đến ba lần “giảo” Quân mới giật mình ngước mặt.

  • Không phải khách bản, là khách đường xa. Anh giục, chuẩn bị cơm nước đón khách nhé!

Đứa gái da trắng như bông lê, má hây hây như cánh đào Xuân bẽn lẽn cắp nồi đi vào. Đã được Phòng - một người bạn của chúng tôi trước đây dạy cùng trường “giảo” Quân dặn trước nhưng chúng tôi vẫn khá bất ngờ và phân vân chưa biết chào sao cho phải. Nhỡ đứa gái ấy là con anh, cũng có thể là một đứa cháu họ nào đó đến chơi, mà nghe đâu anh cũng đã lên chức ông ngoại… nên chỉ biết gật đầu qua qua vậy.

Trai tài, gái sắc, khèn thì đã ngấm, tiếng khèn cũng đã luồn theo vách liếp mà đi vào từng cơn ngủ, đi vào trong mỗi cái nhìn đắm đuối thì việc có người vợ trẻ hơn gần ba mươi tuổi như “giảo” Quân cũng đâu lấy gì làm lạ. Đã biết trước vậy nhưng sao vẫn ngơ ngác quá chừng.

Rót chén nước, chủ bảo, nay làm khách đường xa nhà mình thì rượu phải uống, cơm phải ăn đấy nhé! Câu chuyện giữa chúng tôi và “thánh khèn” trở nên rôm rả khi “giảo” Quân trải lòng về những món khèn, về cậu trò Hoàng Văn Quang đang theo anh ngày đêm tập luyện những bài khèn khó. Giờ, hai thầy trò đã thuần thục những bài khèn đứng trên vai nhau hay múa khèn trên cọc cao, song anh còn đang tập trung cho một bài khèn rất khó và khá nguy hiểm khác, ấy là khèn trên dây. Mấy ngày nay “giảo” Quân nghiên cứu, nghiền ngẫm mãi, anh bảo, thằng trai Mông núi cao thế còn trèo được, ở được thì chắc cũng sẽ làm được thôi! Cái quyết tâm ấy được “thánh khèn” nói ra đầy chắc chắn song cũng rất khiêm nhường.

Nhớ lại thời trai trẻ, trước những năm 1990, khi còn chưa đi học trường sư phạm, “giảo” Quân cho biết, anh cũng đã rất đam mê, nhiều lần thử khèn song chưa có điều kiện để theo học. May mắn đến với “thánh khèn” Quân, khi ra trường anh được phân công về dạy tại Lủng Phặc, nơi mà 100% là đồng bào Mông sinh sống, ở đó ngoài công việc, anh còn có rất nhiều bạn khèn; rồi lại được ông cậu trong nhà là thầy Đức khèn truyền dạy thêm cũng như được bổ túc từ ông Hoàng Minh Tân (Chủ nhiệm Câu lạc bộ khèn Mông thôn Bản Nghè, Cổ Linh, Pác Nặm) mà tiếng khèn của “giảo” Quân dần có thêm hồn, thêm vía. 

Ấy mà khèn đang tới độ, Xuân đang vui thì đùng cái đồng bào Mông ở Lủng Phặc ùn ùn theo đạo, bỏ khèn, bỏ sáo, bỏ ban thờ, bỏ cả những câu dân ca ngọt như mật mía mà hát thánh ca, mà chơi đàn Oóc. “Giảo” Quân ngác ngơ với diễn biến bất thường này, và cũng quặn lòng mỗi khi khèn chẳng ai buồn đáp. Anh bảo, lúc ấy buồn lắm, cảm giác như tụt xuống hố sâu, một mình một vực. Mùa Xuân khi ấy chừng chỉ ngang qua Lủng Phặc chứ không dừng lại khi đồng bào Mông nơi này quay lưng lại với truyền thống, với bản sắc cha ông. Mùa Xuân đi nhanh lắm, nhanh hơn cả con nai rừng trúng tên. Những bài khèn, những câu dân ca, những lời kèn lá, sáo Mông lăn lóc trượt trôi, “giảo” Quân nhận cả cho mình, nhận cả những đắng đót người ta quẳng lại.

Mỗi dịp hội Xuân, “giảo” Quân lại lấy khèn ra thổi, những âm thanh cứa lòng quặn xót. Rồi cứ vậy, anh kiên trì lần đến các hội Xuân, và rồi đồng bảo Mông đã cởi lòng đón nhận những thanh âm của núi rừng, của cha ông khiến “giảo” Quân lảo đảo như người say, mà đúng anh say, say trong điệu khèn, say trong sự hoan vui, say trong tình Xuân nồng ấm. Những người trước là thầy anh giờ trầm trồ thán phục, giờ xuýt xoa ngợi khen. Động tác khèn “giảo” Quân độc, lạ và hết sức phức tạp. Nhớ lần đầu tiên tiếng khèn anh xuất hiện ở Hội Xuân Hồ Ba Bể, ấy là năm 2014, khi đó, cả một góc hồ như trũng xuống bởi “thánh khèn” đã kéo rầm rập bước chân của du khách đến với những âm hưởng dân ca Mông. Những cô Tây ngẩn người mê mải, rồi họ chụp, rồi họ học khèn, rồi họ múa khèn cùng anh… rồi họ mang câu chuyền về anh đem kể cho những người xứ lạ tận mãi trời Âu… mà biết đến Hội hồ Ba Bể có một một “giảo” Quân “thánh khèn”. Giờ đây, hội Xuân vùng hồ Ba Bể hay Hội Mù Là của huyện Pác Nặm đều có sự tham góp của anh, tiếng khèn “giảo” Quân đã trở thành một phần không thể thiếu. Xã biết đến “giảo” Quân , huyện, tỉnh đều biết “giảo” Quân, các thiếu nữ Mông thì đắm đuối mải mê với tiếng khèn “giảo” Quân đến chẳng cả biết đường về bản.

Bên chén trà nóng hổi trong căn phòng bé tẹo teo như một lán nương mà vợ chồng “giảo” Quân thuê để dạy học cho gần trường, sát ngay Chợ bò Nghiên Loan của huyện Pác Nặm, chúng tôi trêu cô vợ trẻ của “thánh khèn” rằng, khèn hay như “giảo” Quân thì rất dễ bị người ta bắt mất, thế có sợ không? Cô bé mủm mỉm cười nhỏn nhẻn, nó đi mình cũng cùng đi mà..! 

Từ dạo có cô gái trẻ theo xách khèn, nâng khăn, mỗi độ Xuân về nơi non cao Pác Nặm hay vùng hồ Ba Bể, người ta lại thấy “thánh khèn” dắt theo một cô gái chừng mười tám, đôi mươi cùng cậu trò lủng lẳng đồ nghề trên lưng vượt đèo góp mặt; rồi tiếp đó là được thưởng những điệu khèn cuồng say trong trùng trùng chân bước, trong lớp lớp thanh âm của những bài dân ca Mông đắm mê lòng người, và hẳn nhiên khi đó, “thánh khèn” cùng cậu học trò của mình lại say, say trong từng âm gió, say trong từng động tác hình thể để những âm hưởng núi rừng được cất lên rộn rã trên những đỉnh núi mùa Xuân./.

Nguồn Văn nghê số 4+5+6/2019

 

 


Có thể bạn quan tâm