April 25, 2024, 4:26 pm

Mai Phương trên từng cây số văn chương

 

Sáng cuối thu, trời se lạnh, nhận được Tuyển tập Văn Chương Mai Phương( NXB Hội Nhà Văn) tôi mở ra đọc ngay và bao ký ức bỗng ập về như lá vàng rơi trên từng trang giấy khiến tôi bâng khuâng suy ngẫm nhiều hơn về một con người đắm đuối văn chương suốt cả cuộc đời.

Năm 1959 khi tôi và cố nhà văn Dương Thị Xuân Quý vào học khóa đầu trường Trung cấp kỹ thuật Mỏ thì Mai Phương đã là phóng viên, biên tập viên báo Vùng Mỏ cùng với nhiều cây bút nổi tiếng như Hứa Văn Định, Nguyễn Thế Hội, Trương Thị Lộc, Như Mai (tác giả Thi sĩ máy), sau này có thêm Lý Biên Cương, Hoàng Quốc Hải...

Với vóc dáng cao đẹp, tính cách sôi nổi tận tình, lại có mối quan hệ rộng Mai Phương luôn được nhiều người quý mến, tin cậy, nhất là những cây bút trẻ của vùng than như chúng tôi rất ngưỡng mộ khi ông được nhiều nhà thơ lớn như Xuân Diệu, Chế Lan Viên quan tâm chỉ giáo. Chính nhà thơ Xuân Diệu đã cho in bài bút ký đầu tiên của Mai Phương Những người địa chất trên núi cao trên tạp chí Văn nghệ và là bà đỡ cho tập thơ đầu tay Sắc hoa vàng. Chế Lan Viên ghi nhận xét: “Tứ toàn bài hay... Kỹ thuật xây dựng bài tương đối gọn, có nhiều câu khá hay... Anh nên làm thơ, làm hăng vào...

Tôi và cố nhà văn Tô Ngọc Hiến thường đến nghe Mai Phương đọc thơ và chiêm ngưỡng tủ sách quý đồ sộ đến mức tôi cũng phải rứt ruột góp vào cho ông cuốn Thi Nhân Việt Nam và cuốn Sử ký Tư Mã Thiên bản dịch Nhượng Tống in trươc 1945...

Mới đó mà đã ngót 60 năm chúng tôi dấn thân trên từng cây số văn chương - báo chí khám phá nguồn lửa từ những người thợ mỏ Quảng Ninh. Cứ tưởng đã quá biết, qua hiểu nhau, nhưng nay đọc hết tuyển tập văn chương mới hay còn có một Mai Phương khác luôn tràn đầy khát vọng, sâu lắng yêu thương mà khổ đau đến tột cùng, chấp nhận từ bỏ hoài bão lớn với những ước vọng cao siêu để sống bình dị, nhân ái bao dung, không chịu khom lưng, nịnh bợ, cúi luồn... Nó giải thích vì sao cho tận lúc cầm sổ lương hưu khiêm tốn ông chưa hề giữ một chức vụ nào của cơ quan, nhưng sau khi nghỉ hưu Mai Phương lại vui vẻ làm trưởng đại diện cho nhiều tờ báo và là chi hội trưởng Nhà văn Quảng Ninh không hề có lương lương. Ông là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, Hội Viên Hội Nhà báo Việt Nam, hội viên Hội Điện Ảnh Việt Nam. Ông được tặng thưởng Huân chương kháng chiến chống Pháp hạng Ba, Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhất, nhiều giải thưởng văn học, báo chí truyền hình của Quốc gia và Văn nghệ Hạ Long

 

NHỮNG KHÁT VỌNG VĂN CHƯƠNG

Nhà thơ Mai Phương tên thật là Lê Viết Thuận, sinh ngày 3 tháng 2 năm 1933 tại Tuy An - Phú Yên, là con thứ năm trong một gia đình yêu nước nghèo. Từ nhỏ ông đã say mê đọc sách, chịu ảnh hưởng của văn hóa Pháp, âm nhạc và thơ lãng mạn tiền chiến. Cha mẹ mất sớm, anh chị em ông tự lực nuôi nhau. Năm 17 tuổi ông theo anh trai vào bộ đội và cuối năm 1954 tập kết ra Hà Nội, được học thêm văn hóa, nghiệp vụ kỹ thuật rồi được điều động về Khu mỏ Hồng Quảng công tác năm 1958.

Bút danh Mai Phương xuất hiện trên báo từ mùa thu năm 1957 khi ông được cô sinh viên Hà Nội xinh đẹp Dương Phương Mai trao cho nụ hôn đầu đời trên ghế đá bên bờ hồ Hoàn Kiếm. Anh ngồi phía nắng che em/ Phía mưa che ướt, phía đêm che buồn/ Phía xa che những tủi hờn/ che cơn ác mộng chập chờn hiện ra... Cô gái Hà Thành xinh đẹp đã đem đến cho chàng tra Phú Yên một tình yêu sâu sắc về thủ đô ngàn năm văn hiến và những cách nhìn mới mẻ về đất nước: Hà nội không có trăng/ Về nông thôn chống hạn/ Được cùng em tát nước gàu sòng/ Được cả đồng trăng sáng... Nhưng trăng cũng vô tình lắm thay, dày vò tàn nhẫn lắm: Bóng trăng nghiêng nửa mái đồi/ vô tình tôi gặp em tôi với nàng/ Cầm tay đi dưới trăng vàng/ Còn tôi tê tái lẹ làng nghiêng ra/ Nỗi đau ngấm tận thịt da/ Để tôi đi mãi muôn xa không về...

Đây là thời kỳ Mai Phương làm nhiều thơ tình “ướt át”, nhưng hồi đó rất khó đăng báo (sau này mới hoàn chỉnh lại). Dẫu mối tình đầu nhanh chóng tan vỡ khi họ phải xa nhau, nhưng vẫn còn hiện hữu trong thơ Mai Phương lâu dài, kể cả khi ông kết hôn với cô nhân viên đánh máy đã bị chinh phục bởi những bài thơ tình của ông. Cùng với hạnh phúc khi vợ sinh con đầu lòng và những thành tựu bước đầu ở một tờ báo lớn có nhiều uy tín của vùng mỏ, khát vọng văn chương lớn dần trong tâm hồn Mai Phương gắn liền với những nhận thức mới về vẻ đẹp kỳ vĩ của Hạ Long – Yên Tử và những người thợ mỏ. Khi đêm lạnh trùm lên ngàn đảo nhỏ/ Vạn thuyền câu lạc tận bến bờ xa/ Những chiếc cuốc mang tình người thợ mỏ/ Đi đào than thắp sáng ấm mọi nhà... Ai yêu trời thu/ Trong xanh như ngọc/ Tôi yêu than huyền/ Mượt như mái tóc... Thơ Mai Phương thời đầu rất bình dị, nhưng cũng lấp lánh sự tìm tòi riêng: Đồng chí bí thư bảo tôi/ Cứ phải cười/ với cả những tên hèn nhát/ hòa vào hắn như nắng hòa vào cát.../ Chi bộ sẽ kết nạp anh. Nhưng Mai Phương không thể cười với cái xấu cái ác, càng không thể làm bạn với những kẻ hèn nhát dù để cải tạo nó thành anh hùng để mình được tiến thân. Ông coi trọng tư cách nhà thơ, nhà báo thiêng liêng như thiên chức trời ban vì sự tốt đẹp của nhân loại. Khát vọng văn chương lại trào dâng đến mức ông đã tự động xin vào học khóa đào tạo viết văn đầu tiên của Hội Nhà văn Việt Nam cho dù cơ quan không đồng ý. Ngày ấy vào biên chế đã khó, nhưng ra biên biên chế còn khó hơn, nhất là phóng viên, văn nghệ sĩ ở khu công nghiệp lớn, nơi khá nhiều người nổi tiếng liên quan đến “nhân văn giai phẩm” được đưa đi thực tế để có nhưng tác phẩm trong sáng về công nhân. Với sự tác động quyết liệt của tỉnh, Mai Phương buộc phải trở về trong nỗi thất vọng và cô đơn cao độ khi không còn được làm ở tòa soạn báo và nhất là buộc phải chia tay người vợ đã sinh cho ông hai cậu con trai tuấn tú... Là cán bộ miền Nam, ông may mắn được nhận về Đài Phát thanh Quảng Ninh với những cán bộ lãnh đạo, biên tập viên từng trải, năng động, nhân ái nên đã vững vàng vươn lên trở thành một cây bút sắc sảo .

Năm 1975, miền Nam được giải phóng, cứ tưởng Mai Phương sẽ trở về sống ở quê hương hoặc chuyển vào Sài Gòn, nơi có nhiều lãnh đạo đài báo từng quen biết muốn tin dùng ông. Nhưng sau vài lần khảo sát, Mai Phương đã quyết định ở lại vùng mỏ lâu dài vì theo ông không ở đâu hùng vĩ thơ mộng hơn Hạ Long - Yên Tử và không ai chân tình đối với ông hơn những người thợ mỏ và nhân dân Quảng Ninh. Mai Phương lại rất may mắn gặp được một mỹ nhân họ Trần trẻ tuổi sinh ra trong một gia đình say mê văn học nghệ thuật luôn quý mến ông nên đã sốt sắng xây nhà tại Cẩm Phả và cưới vợ lần thứ hai. Phu nhân Trần Thị Bích tươi trẻ dịu hiền đã sinh cho ông hai cậu con trai hào hoa phong nhã, giúp ông có thêm nghị lực, thêm sáng suốt vượt qua những khó khăn, thiếu thốn khi mà nền kinh tế đất nước trì trệ, phải nhọc nhằng kiếm từng cân đường, mét vải. Lại nhớ, có lần tôi chở Mai Phương đi xe máy về Hòn Gai, chẳng may gặp chỗ dầu chảy ra đường, bị ngã làm xước đầu gối ông khá đau. Nhưng Mai phương không bận tâm đến vết thương mà chỉ thở dài: - Ông làm rách mất chiếc quần simili tôi mới được phân. Phiếu vải hết sạch rồi!

Cuộc sống khắc nghiệt, vốn quen tằn tiện từ bé, Mai Phương luôn chấp nhận mọi thiếu thốn của bản thân nhưng rất chu đáo cho vợ con và tận tình với bạn bè. Ông đã từng cơm bưng nước rót, lo đủ cả rượu và thuốc lá ngon nuôi bạn văn hàng tháng trời. Ông thích được lắng nghe bạn văn chương chuyện trò, bình phẩm mọi sự, nhất là mổ xẻ thơ văn của mình. Ông yêu ghét rõ ràng, đã quý ai thì hết mình, không tiếc công tiếc của. Thời kỳ này ông làm nhiều thơ thế sự. Thơ của ông vẫn chân thực nhưng câu chữ đã lấp lánh những nỗi buồn nhân thế phảng phất triết lý dung dị: Hạnh phúc/ Đâu chỉ ở ngôi nhà/ Vườn hoa/Vợ đẹp/ Càng không phải chức trọng quyền cao/ Hạnh phúc nhất trần gian là sáng tạo. Quan niệm sống của Mai Phương thể hiện rõ trong thơ: Suốt cuộc đời ta đã sẻ chia... ta nhường hết/ Nóng - lạnh - đắng cay - chua chát - đớn đau ta nhận cả về mình.../ Ta trọng nhất trên đời là nhân ái/ Chúa ghét kẻ thất đức/ Đừng đợi ai ngửa tay xin/ Hãy đơm trước khi họ đói/ Vẻ đẹp của người là không giận oán thù ai .

Suốt cuộc đời dù thăng trầm, vất vả nhọc nhằn, Mai Phương luôn vui vẻ chấp nhận để vươn lên chính nhờ có khát vọng văn chương chia sẻ vui buồn.... Mất nhiều rồi/ Chậm nhiều rồi/ mà có trách ai đâu/... Cái còn lại dẫu hiếm hoi khó kiếm/ Cho tâm linh dự cảm/ Tìm được chính mình... Ôi giá thử trời cho ta trẻ lại/ Thì tôi đây vẫn cứ phải là tôi/... Vẫn yêu người như yêu chính mình thôi...

 

DẤN THÂN CÙNG THỢ MỎ ĐÀO THAN BẰNG VĂN CHƯƠNG

Trong tuyển tập của mình, Mai Phương không thể đưa vào hàng chục phóng sự thu thanh, phóng sự truyền hình và nhiều bài báo từng nâng cao uy tín Đài Phát thanh - Truyền hình Quảng Ninh. Ông là phóng viên duy nhất của đài Quảng Ninh được đài Tiếng Nói Việt Nam coi như là phóng viên thường trú suốt thời bao cấp, nhất là trong chiến tranh chống Mỹ. Ông cũng chính là người đã đem về những chiếc huy chương vàng, bạc đầu tiên tại những kỳ Liên hoan Truyền Hình toàn quốc bao gồm cả phim phóng sự, phim ký sự ca nhạc. Vốn là người có kiến thức văn học, lại rất chịu khó học hỏi, nghiêm túc, chu đáo trong cuộc sống, trong mọi công việc nên ở bất cứ lĩnh vực nào, đề tài nào khi đã chủ tâm thực hiện Mai Phương đều dốc hết sức lực tìm tòi, sáng tạo và dường như chất thơ trong tâm hồn ông luôn được tỏa ra trong từng câu chữ, từng khuôn hình, khiến cho tác phẩm phát thanh, truyền hình cũng có hồn phách riêng. Ngay đến cả phỏng vấn những người thợ mỏ hay giám đốc mỏ, Mai Phương đều gợi mở để họ nói những điều chân thực, bình dị mà sâu sắc, kể cả những thiếu sót chủ quan, không để họ đổ lỗi cho khách quan. Ông luôn thông cảm với sự nhọc nhằn của nghề mỏ, nhất là với những giám đốc mỏ trung thực, năng động nhiệt tình vì thợ mỏ luôn được ông ca ngợi, bênh vực. Ông tìm hiểu rất kỹ từng nhận vật mình viết và chỉ viết những ai mình yêu quý, thừa nhận phẩm chất của họ. Đó là sự độc đáo của anh hùng lao động Đặng Văn Bình giám đốc Đèo Nai, Lê Đình Trưởng giám đốc Cao Sơn, Nguyễn Văn Kiệm, giám đốc Cọc Sáu... hay những kỷ niệm sâu sắc với Nguyễn Phú Thưởng từng là giám đốc Đèo Nai và Tuyển Than Cửa Ông, người được dự kiến lên thay tổng giám đốc ngành than, không may gặp vận đen bị đưa ra tòa xét xử vì đã tự ý thưởng cho đơn vị bán hàng tồn kho và gom vàng  để mua nhà cho Công ty làm văn phòng đại diện tại Hà Nội mà không thành, vàng lại bất ngờ bị tụt gía. Mai Phương đã cùng tôi đến dự phiên tòa xử Phú Thưởng, rất bất bình về bản án ba năm tù, chúng tôi tìm gặp vị chánh án tòa án tỉnh tranh luận quyết liệt. Mai Phương gay gắt: -Tôi biết rõ Phú Thưởng từ khi tập kết ra Bắc đến nay luôn sống trong sạch, làm việc gì cũng thận trọng vì lợi ích của công nhân cán bộ. Dây cáp nhôm làm ra không ai mua, người ta bán cho công trình với giá cao, thưởng chục triệu đồng là quá ít. Còn gom vàng mua nhà không thành thì vàng vẫn còn nguyên trong quỹ công ty, nay tụt giá mai lại tăng vọt thì sao? Tòa xử tù Phú Thưởng thì Đảng được gì, nhân dân được gì mà ngành Than mất một giám đốc giỏi giàu kinh nghiệm... Ông chánh án vui vẻ mời cơm chúng tôi rồi thành thật nói: - Đây là một vụ án “tế nhị” không thể xử khác được, để rồi tòa phúc thẩm sẽ trả lại công bằng cho Phú Thưởng. Chắc sẽ trắng án. Mai Phương trầm ngâm thở dài: - Quả là còn khối chuyện “tế nhị” ta chưa thể động bút tới, nhưng tòa án là cán cân công lý phải thế nào chứ ? Mai Phương đứng lên, ngẫu hứng thơ: Tòa án/ Không chỉ biết phán xử/... Tòa án phải là một học đường/ Là một tấm gương/ cho ai cũng soi được mình/ Tủ hồ sơ rỗng tuếch/ Vì không ai phải phạt tù...

Tính cách của Mai Phương là luôn đào sâu mọi việc, thích nói thẳng, nói thật dù ai đó có mất lòng. Ông thích sự sạch sẽ trong cuộc sống cả nghĩa đen lấn nghĩa bóng. Khi đã biết rõ sự bất công thì sắn sàng dấn thân chiến đấu đến cùng. Chỉ vì đấu tranh cho một phụ nữ mua nhà 8 năm chưa được ở, Mai Phương đã bị con người chiếm nhà dùng xe mô tô phân khối lớn đâm thẳng vào xe máy mình khi đang chở vợ con, may mà thoát chết. Tôi vô tình đi qua cũng bị tên đó chăn lại đập nát đầu xe. Đây là vụ hành hung nhà báo đầu tiên ở vùng mỏ được báo chí cả nước lên tiếng và tòa án thị xã Cẩm Phả phải đưa ra xét xử nghiêm minh...

Dườngnhư khắp mọi nẻo đường Quảng Ninh, mọi tầng than, lò sâu, nhà máy bến cảng và nhiều miền quê khắp đất nước đã in đậm dấu chân và ngòi bút văn chương của Mai Phương dù ông chỉ khiêm tốn đưa vào tuyển tập 23 bút ký, 98 bài thơ, 6 truyện ngắn, một truyện thơ và một trường ca về Bác Hồ. Đã có nhiều nhà văn nhà thơ nổi tiếng như Trần Đăng Khoa, Trung Trung Đỉnh, Tô Ngọc Hiến, Lý Biên Cương... viết kỹ về văn thơ Mai Phương, tôi chỉ khắc họa lại những chặng đường nhọc nhằn Mai Phương đã đi qua với những tính cánh đáng yêu, đáng nhớ mà cuốn tuyển tập văn chương này là bao mồ hôi nước mắt trăn trở nhọc nhằn của nhà thơ rất đáng trân trọng.

Trên từng cây số văn chương của hơn 60 năm cầm bút, Mai Phương đã khắc họa được nhiều thân phận, nhiều sự kiện sống động, nhiều vẻ đẹp đa dạng, đa chiều mà mỗi con chữ đều lấp lánh sự tìm tòi, khám phá riêng. Truyện thơ Trái tim nhân ái là chuyện người thật việc thật,có đầy đủ yếu tố của một cuốn tiểu thuyết hay, một bộ phim nhiều tập hấp dẫn, có thể vì quỹ thời gian eo hẹp, Mai Phương tự lượng sức mình không thể tung hoành được chăng!

 

 CHIÊM NGHIỆM CUỘC ĐỜI VÀ VĂN CHƯƠNG

Vừa bước qua tuổi 86, Mai Phương gặp một cơn đột quỵ khá nặng, nhưng ông hồi phục nhanh nhờ lối sống điều độ, khoa học, không nghiện thuốc lá, không sa đà bia rượu, thanh thản tự coi cái chết nhẹ tênh khi mình đã hoàn thành nghĩa vụ với đất nước với gia đình và sự nghiệp văn chương. Mười năm gần đây Mai Phương thường thao thức suy ngẫm tự chiêm nghiệm lại cuộc đời và văn chương. Có lẽ ông không quên một ai đã từng yêu mình, giúp đỡ mình, không quên những nỗi cô đơn, đau đớn khi phải bươn trải, dấn thân vào những nỗi nhọc nhằn, vất vả chăm lo cho hai người vợ và bốn con trai trưởng thành. Có điều gì đó đã ràng buộc Mai Phương với khát vọng văn chương như một định mệnh đến với ông từ thời đi học đã sớm thuộc thơ Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Hoàng Cầm , Hữu Loan, mê nhạc Văn Cao, Phạm Duy... Năm 1975 vào Sài Gòn ông đã  dồn hêt tiền mua sách văn học  dịch của Pháp, Nga và băng nhạc tiền chiến, về Quảng Ninh bị một vị phó đài vu cho cái tội truyền bá văn hóa nô dịch. May là sở Công An và sở Văn Hóa hiểu rõ Mai Phương nên ông vẫn bình an, sách và băng không bị đốt.

Quả thực, không chỉ các vị lãnh đạo tỉnh, lãnh đạo ngành Than, các địa phương, các doanh nghiệp các thời kỳ đã qua mà đông đảo công nhân cán bộ đều dành cho Mai Phương những tình cảm sâu sắc nể trọng. Ông tự hiểu chỉ những ai có lắm tật mới ngại tiếp xúc với mình và những kẻ như vậy có ném ra tiền tấn cũng khó lòng để Mai Phương động bút ngợi ca. Với vị thế của mình nếu muốn làm giàu Mai Phương thừa sức tung hoành buôn than thổ phỉ chứ đâu phải đi bán báo, bán lịch, xin quảng cáo để tự tồn tại và góp thêm cho những tờ báo thân thiết có tiền mừng tuổi phóng viên.

Cùng về Vùng Mỏ một thời với Mai Phương có khối người trình độ tài năng thua xa ông, nhưng nhờ biết cúi luồn bon chen phất lên nhanh lắm, trở thành đại gia, giàu có nhưng chẳng mấy ai kinh trọng. Mai Phương không chọn con đường đó và ông chưa bao giờ hối tiếc những dịp may được đề bạt hay có thể kiếm tiền rất nhanh. Cố nhà văn Hứa Văn Định từng nói: - Mai Phương khổ suốt đời vì quá sạch sẽ cả trong lẫn ngoài... Suốt ngày dọn dẹp lau chùi, tìm chùm chìa khóa; suốt ngày suy ngẫm minh có làm gì sai trái không... Còn cố nhà báo Nguyễn An Định thì thường đùa vui:- Càng đắm đuối văn chương thì Mai Phương càng phải chiều chuộng lắm đàn bà... cũng khổ lắm thay! Cả hai ông Định nói đều đúng. Dù đã có hai bà vợ, bốn cậu con trai, Mai Phương vẫn không hề thay đổi lối sống sạch sẽ, sôi nổi, nhiệt tình, chu đáo, lãng mạn nên vẫn có nhiều cô gái trẻ đẹp phải lòng. Ông đã từng đạp xe suốt đêm về Đông Triều để được nghe giọng đọc và bình thơ ông rất ấm áp của một cô nàng xinh đẹp mới bước vào nghề phê bình văn học. Những nụ hôn như vậy thật đáng được các nhà thơ ghen tỵ. Nhưng phu nhân Trần Thị Bích dường như quen rồi: - Chống mình phải thế nào mới được người đẹp hôn chứ! Mai Phương đã có hơn mười bài thơ tặng vợ và cũng rất thành thực thú nhận: Vợ là vợ/ Yêu là yêu/ Xin em đừng nghĩ khác/ Cho anh phải khổ nhiều/ Vợ là thật/ Yêu còn thật hơn/ Xin em chớ giận hờn/.... Nhà là cung đình/ Vợ là Hoàng hậu/...Yêu ở ngoài bờ dậu… Nhưng rồi chính Mai Phương cũng phải tự phân loại đâu là tình yêu đích thực, tình yêu thủy chung: ... Tình yêu sao thật lạ/ Lật nhào bao đế vương/ Tình yêu làm nghiêng ngã/ Bao thành trì linh thiêng/... tình yêu như giăng bẫy/ Mắc vào thật tự nhiên/ Chỉ tình yêu chung thủy/ Mới thành chuyện thần tiên.

Trước trang giấy trắng tinh, ngòi bút Mai Phương đã nhiều lần thành tâm sám hối, nhất là với người vợ đã hết lòng vì chồng con: Lỗi lầm xưa biết chuộc thế nào đây/... Làm sao trả lại em thời con gái / Thời thơ ngây nồng thắm để mê say/... Còn bây giờ day dứt suốt ngày đêm/ Lại cứ phải thỉnh cầu em tha thứ/ Còn như thể tội anh đem phán xử/ Thì muôn năm xin trọn kiếp đọa đày.Và Mai Phương thở dài: Đạn thù chẳng sểnh thịt da/ Đạn tôi lại phá nát nhà của tôi. Thật may cũng lại nhờ sự sám hối bằng thơ ấy, gia đình ông vẫn luôn giữ được sự yên ấm yêu thương ngày càng sâu đậm. Bốn chàng quý tử của ông đều đã trưởng thành theo cách riêng của mỗi người nhưng đều giữ được vẻ đẹp riêng của cha mẹ và luôn ghi nhớ những điều giản đơn ông đã dạy: Không làm kẻ vô tâm, hèn nhát; Không theo tên kẻ trộm ngông cuồng... Ông trao cho con chiếc barie bản lĩnh để biết dừng lại trước vực thẳm hiểm nguy của mọi cám dỗ, ham muốn tầm thường. Gia tài ông để lại cho con không nhà đất, không vàng bạc... chỉ có những bài thơ dễ thuộc và sự  khẳng định: - Đừng bao giờ phải tra tay vào còng số 8. Chính tuyển tập Văn Chương Mai Phương là do cậu út nhà ông kỳ công đầu tư thực hiện. Âu cũng là một chút lòng thành của “nghĩa sống mới thực cần nghĩa tận.”

Người xưa thường nói: Hổ chết để da, người già để tiếng. Với Mai Phương văn chương được người đời yêu thích truyền tụng là thứ danh tiếng vô giá, không một chức tước, danh lợi nào so sánh được.

Nguồn Văn nghệ sô 41/2018

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


Có thể bạn quan tâm