March 29, 2024, 7:07 pm

Lòng ta mây trắng về đâu nhỉ?...

 

Ngoài kia mây trắng gợi ra hình ảnh nhà thơ nhìn ra xa, nhìn vào khoảng không, một cõi không gian mênh mông vô định. Hiện thực không phải là nơi hướng về. Lên Ba Vì, nhà thơ tự hỏi: “Lòng ta mây trắng về đâu nhỉ?” Đấy là câu hỏi ném vào hư không lặng im cô tịch: “Cõi trần như dấu hỏi/ Dành cho mỗi kiếp người” (Tặng mình 70 tuổi). Và đối lập với “ngoài kia” là trong này, tức là “cõi tâm thức” của nhà thơ, khi tác giả soi vào nội tâm của mình. Thơ Lê Thanh Xuân là thơ hướng nội, tiếng thơ là tiếg nói nội tậm, mình nói chuyện với mình, gẫm suy về đời mình.

           Thế nên Ngoài kia mây trắng là một tập thơ lãng mạn (hiểu theo nghĩa lý luận văn học). Hiện thực trong tập thơ không phải là đối tượng khám phá, cũng không được ghi lại để “phản ánh hiện thực” công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nếu viết về hiện thực thì đó là những bài tụng ca kiểu thơ phong trào, hiện thực ấy đẹp trong veo.

            Tên là “Thanh Xuân”, đã chọn lựa là nhà thơ, thì giống như con chim kia, mi phải hót những tiếng trong veo vào vô tận. Đấy là số phận không thể đổi dời. Tôi nghe có vị đắng trong những câu chữ đẹp như thế. Cái vị đắng nằm ở dưới đáy rất sâu của hồn thơ, trở thành tiếng âm thầm. Tiếng nói nội tâm là ngôn ngữ chính của nhiều bài thơ, là ngôn ngữ ẩn mật bên dưới những câu chữ tươi xanh nhảy múa.

Đó là tiếng nói của một cái “Tôi”, cái “Ta” vừa thăng hoa, vừa day dứt níu kéo, vừa rất đủ đầy là vừa khao khát thiết tha, vừa rất vững chãi lại rất chông chênh vô định. Cái tôi đối mặt với tuổi già, đối mặt với hư vô. Những gì đã có, những gì đã qua đều trở thành vô nghĩa. Nhiều khi hồn thơ thảng thốt. Cái tôi hữu hạn nhìn ra vô tận mà choáng ngợp cô đơn. Đi gần hết đường trần mà giật mình, thấy mình xa lạ.

Cuối đời gặp lại sông sâu

Đến đây, người lái đò đâu mất rổi?

Bãi xưa thấm mát sa bồi

Xanh kia mấy nụ, lòng tôi một mình

Đưa tay chợt chạm vô hình

Mới hay ngày ấy rất xinh chẳng còn

                                (Bến xưa)

Khu vườn cây đã già nua

Mùa thu lặng lẽ đi qua vô tình

Lá vàng-mình chợt giật mình

Buồn như mây thoáng lặng thinh giữa trời

                             (không đề)

            Trong thơ Lê Thanh Xuân luôn ẩn dấu một nỗi buồn sâu thẳm (Lối Thu, Phong Châu, Về Nguyệt Viên nhớ Cẩm Giàng). Đằng sau những gì ông nói ông cười, là nỗi buồn (Bất ngờ buổi sáng). Phía dưới những gì ông miêu tả là tươi xanh, lại hiện hình những nỗi niềm vô vọng (Bến xưa), và lẩn trong hiện thực tưởng là tốt đẹp, tưởng là hy vọng, lại là nước mắt (Tâm sự).

            Xin đơn cử, viết về Long Thành, nơi tương lai sẽ có một sân bay quốc tế góp phần làm giàu đẹp đất nước, Lê Thanh Xuân không vui, trái lại, ông đã khóc:

            Cây lúa như là không cây lúa

            Công nghiệp chạm môi đồng đất tức thời…

… Không có lúa là những gì đi tiếp

            Chạm đất đồng mắt bỗng chạm vị cay

                        (Cây lúa Long Thành)

            Ta là kẻ đang đi tìm tên

            Trong thế giới của nhiều xa lạ

                         (Ý nghĩ bất chợt)

            Những nỗi niềm đã được mã hóa để dấu kín như thế đã làm nên những tứ thơ hay và lạ trong thơ Lê Thanh Xuân (Thơ tặng mùa hạ, Trung du-Thu, Ngã ba Chăm, Chiều Tây Côn Lĩnh, về Nguyệt Viên nhớ Cẩm Giàng, Thung lũng, Phong Châu)

            Lây phây chiều rắc bụi mưa

Lạnh đâu chợt đến. Gió lưa thưa buồn

Cô đơn tôi đến tận nguồn

Chút tình xứ Bắc, chút hồn phương Nam

                                     (Thung lũng)

            Bút ký bản nhỏ, Bản Mông là những bài thơ hay. Chất ký sắc xảo, chất thơ tài hoa, và chất tình như men say.

            Bản Mông lưng chừng núi

            Tiếng gà gáy ngược lên

            Móng ngựa rền xuôi xuống

            Tới chợ chưa tắt đèn”

                        (Bản Mông)

            Lê Thanh Xuân cũng thử bút ở kiểu “Thơ Trẻ-Thơ khó hiểu” đầu thế kỷ XXI (Hoàng hôn tháng chạp, Người đi bộ trên bão biển Nha Trang), tuy nhiên ông mới chỉ đổi mới ở kiểu ngôn ngữ, chưa đổi mới ở kiểu tư duy nghệ thuật.

            Những con bò lặng lẽ đi qua hoàng hôn tháng chạp

            Cánh đồng lặng lẽ tiễn chân người bạn nhà nông

            Sự quyến luyên thân quen phì phò hơi thở

            Tạ ơn nhau trên thớ bụng căng tròn…”

                        (Hoàng hôn tháng chạp)

            Dù đổi mới ngôn ngữ, thơ Lê Thanh Xuân vẫn là thơ truyền thống, không phải thơ cách tân như thơ Việt đầu thế kỷ XXI. Nhiều khi ông viết những câu thơ trong dòng chảy của thơ 7 chữ 1930-1945 (Nga Sơn, Ba Vì)

            Như tỉnh như say rựợu dẫn lối

            Sông đêm sóng sánh một nét mày

            Tiếng chim đập cánh miền đồng cói

            Ngập ngừng chân bước phút chia tay.

(Nga Sơn)

            Có khá nhiều bài trong tập Ngoài kia mây trắng được viết tự nhiên, như quán tính của ngòi bút thi nhân, viết để đáp ứng một yêu cầu nào đó (làm thơ phong trào). Thơ không xuất phát từ sự thôi thúc nội tâm, không sôi sục cảm xúc, không ám ảnh những tứ thơ khoáng đạt mới lạ. Những bài như thế không giúp làm giàu thêm sắc màu thơ của ông (Duyên, Cẩm Mỹ, Mưa đêm Biên Hòa, Ánh điện Tà lài, Vạn lý trường thành, Qua sông Chu nhớ Phùng Gia Lộc, Cây thông trước Nhà sáng tác Đà Lạt…)

            Xin chúc mừng nhà thơ đã vượt qua tuổi 70 mà thơ vẫn trong veo


Nguồn Văn nghệ số 16/2019


Có thể bạn quan tâm