Là cảm xúc xuyên suốt cuốn Nhật ký phi công tiêm kích của Trung tướng Nguyễn Đức Soát, phi công tiêm kích MiG-21, SU-22, SU-27, bắn rơi 6 máy bay Mỹ, anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân. Năm 2020 cuốn sách ra đời ở nhà xuất bản Trẻ, dài 400 tr., khổ lớn, số lượng 2000 cuốn. Ngay sau đó, năm 2021, sách được tái bản. Đây là một hiện tượng tượng khá hiếm trong xuất bản sách hiện nay. Rõ ràng ở cuốn sách này có những điều gì đó mới mẻ thực sự lôi cuốn người đọc. Trong bài viết này chúng tôi sẽ cố gắng lí giải đó là những điều gì.
Trung tướng, AHLLVTND Nguyễn Đức Soát |
Trước hết, Nhật ký phi công tiêm kích không phải một tác phẩm văn học viết theo thể loại nhật ký. Đây là cuốn nhật ký “thật” và người viết nó không hề có ý định “làm văn”. Đây là cuốn nhật ký chiến trường. Ngay trang đầu cuốn sách đã ghi rõ vắn tắt thông tin về tác giả: Ngày sinh: 24/6/1946; Ngày vào bộ đội: 4/7/1965; Ngày đi Liên Xô 5 giờ chiều ngày 27/7/1965; Ngày bắt đầu viết Nhật ký: 20/3/1966 và dừng lại: 31/12/1972, một ngày sau khi Mỹ buộc phải tuyên bố ngừng ném bom miền Bắc. Như vậy, ngay sau khi tốt nghiệp phổ thông, năm 18 tuổi, tác giả đã nhập ngũ và liền sau đó được tuyển học lái máy bay chiến đấu ở Liên Xô. Nhật ký được viết liên tục trong suốt 7 năm. Còn nhớ nhiều chúng ta lúc ấy cũng thường hay viết nhật ký. Theo lời tác giả, nhật ký gồm 5 cuốn sổ nhỏ (2 trong số đó đã bị thất lạc trong khi trực chiến). Hàng ngày người lính trẻ luôn mang sổ nhật ký theo mình, để ở túi áo ngực, kể cả lúc xuất kích chiến đấu. Anh nói, khi ấy chỉ nghĩ, nếu mình có chết thì nhật ký cũng sẽ đi theo mình.
Khi đọc xong Nhật ký phi công tiêm kích, thượng tướng Phạm Thanh Ngân đã thốt lên: “Tôi rất phục anh đã ghi nhật ký liên tục suốt bẩy năm trời trong cả những giai đoạn chiến đấu ác liệt nhất. Đúng chẳng có ai mà nhớ hết sự đời đến từng ngày, giờ, thậm chí từng phút, nhất là trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt - chỉ có nhật ký mới đảm bảo độ chính xác. Cuốn nhật ký của anh đã để lại cho đời, nhất là cho thế thế hệ trẻ hôm nay và mai sau một bài học quý” (tr.8). Ở đây, xét về phương diện văn học, tôi xin mạn phép bổ sung thêm, cuốn Nhật ký này còn là một kho tư liệu quý giá của người trong cuộc viết về lực lượng không quân Việt Nam, tuy còn trẻ, song đã lập được những chiến tích to lớn trong cuộc chiến tranh chống Mỹ, là thứ chất liệu vô giá mà thế hệ các nhà văn sau này rất cần tới khi viết về cuộc chiến tranh khốc liệt này. Tính chính xác, chân thực tới từng chi tiết trong Nhật ký sẽ là một trong những nền tảng cơ bản, cần thiết cho một dòng văn học viết về “sự thật chiến trường” mà người đọc luôn mong đợi.
Sức hấp dẫn của Nhật ký phi công tiêm kích chính là ở chỗ nó đã làm sống lại một giai đoạn hào hùng đầy chất lãng mạn của những thế hệ vàng của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Nhật ký rõ ràng không phải chỉ nói riêng về bản thân người viết nhật ký, nó đã “mô tả một cách trung thực những suy nghĩ của lớp thanh niên thủa ấy về tình yêu Tổ quốc, về trách nhiệm công dân trước vận mệnh mang tính sống còn của dân tộc; thấy được lòng ham mê và quyết tâm nắm chắc kỹ năng bay để được tham gia chiến đấu; thấy được cả những chiến công oanh liệt và những tổn thất không gì bù đắp của cả một lớp phi công trẻ tuổi vừa rời ghế nhà trường phổ thông, giảng đường trường đại học” (tr.15). Đây là nội dung chính yếu toát ra từ những sự kiện, sự cố, hành động cụ thể, mà người viết tham dự hoặc là chứng nhân; toát ra trong mỗi nỗ lực hết mình của từng chiến sĩ trẻ, những người vừa rời ghế nhà trường đã phải chịu sức ép chương trình đào tạo lái máy bay chiến đấu ở nước ngoài rút từ 5 năm xuống còn 2 năm 9 tháng do tình hình thời chiến đòi hỏi; từ những ngày tháng chờ đợi trực chiến căng thẳng, luyện tập, làm quen với địa hình các tỉnh, sân bay rải khắp miền Bắc; từ những cuộc chiến nẩy lửa không đối không với lực lượng giặc lái tinh nhuệ, đầy kinh nghiệm có tới hàng nghìn giờ bay cùng vũ khí tối tân nhất thế giới; từ những cuộc họp “quân sự dân chủ” sau mỗi trận đánh thắng cũng như thua để cuối cùng bằng trí tuệ tập thể đã vạch ra những chiến thuật thông minh, hiệu quả nhằm “lấy yếu đánh mạnh” khiến cho lực lượng không quân Mỹ tổn thất đáng kể; từ chương trình “chuyển loại thần tốc” chỉ có ở Việt Nam, trong vòng 3 tháng được sự kèm cặp của chuyên gia Liên Xô và những phi công lão luyện lái MiG-21, nhiều phi công lái MiG-17 đã chuyển loại thành công sang lái MiG-21và lập nhiều chiến tích; từ những hy sinh, tổn thất to lớn của không quân ta giờ đây mới được công bố. Ngắm những bức ảnh các phi công tiêm kích, những người đàn ông cao lớn, đẹp đẽ dàn hàng ngang, ăn mặc như phi công vũ trụ, miệng tươi cười, tay ôm mũ bay, ai cũng ngưỡng mộ, tự hào, mà không biết rằng đằng sau nụ cười đó là những căng thẳng khủng khiếp khi cái chết luôn rình rập họ và mỗi chuyến bay luôn có cảm giác là chuyến bay cuối cùng.
Sức cuốn hút của Nhật ký phi công tiêm kích còn ở chỗ những sự kiện, chi tiết ngồn ngộn được viết ra một cách tự nhiên, nhi nhiên, song lại mang tính chọn lọc, điển hình, bởi một bản năng văn chương ngầm ẩn mà bản thân tác giả cũng không ý thức được. Những sự kiện dồn dập diễn ra như những cơn lốc trong những tình huống chiến đấu ngặt nghèo không cho phép người viết có thời gian ngẫm ngợi, lựa chọn. Anh viết theo sự thôi thúc bên trong, theo sự chỉ dẫn của kinh nghiệm, sự từng trải, con mắt tinh tường của một phi công thời chiến nắm vững kỹ thuật máy móc và phương pháp tác chiến thông minh linh hoạt, và sự chỉ dẫn của trái tim nóng bỏng căm thù và yêu thương. Những sự kiện trong Nhật ký, đương nhiên, được viết theo tuyến tính thời gian. Tuy nhiên, nếu chỉ đơn giản đưa từng trang nhật ký vào sách sẽ không khỏi gây cho người đọc sự đơn điệu, cho dẫu những sự kiện, sự cố có gay cấn, hấp dẫn đến thế nào. Chính vì vậy trong cuốn sách tác giả đã “chèn” vào những tài liệu chính thống, những trang hồi ký viết ở thời hiện tại nhằm mở rộng và đi sâu hơn vào những sự kiện, giải thích rõ hơn những gì đã xảy ra, đồng thời “tạo điều kiện” để thể hiện cảm xúc và những suy nghĩ về đồng đội, quê hương, bạn bè, gia đình và tổ quốc… Nhật ký đã làm điểm tựa chắc chắn và chính xác cho sự “nhớ lại” và suy nghĩ, khi mọi sự đã qua đi, tác giả có độ lùi thời gian, đủ trải nghiệm.
Sự kết hợp nhật ký, hồi ký và tư liệu trong cuốn sách đã tạo cho nó một kết cấu mới lạ, vừa tự nhiên, hài hòa vừa mang tính dụng công nghệ thuật. Kết cấu của một bản hợp xướng mà trục chính là: Học lái - trực chiến - chiến đấu - vĩ thanh, nhưng kết cấu nội tại bên trong lại cho phép thời - không gian quá khứ - hiện tại đan xen, nơi có thể cùng lúc kể về việc chiếc F-4J duy nhất của thủy quân lục chiến Hoa Kỳ bị bắn hạ như thế nào và ba cuộc hội ngộ ở thời hiện tại của các cựu phi công Mỹ và Việt Nam từng tham chiến - đáng lí đóng vai trò “vĩ thanh” của cuốn sách (tr. 315); nơi ông tướng về hưu 75 tuổi và chàng lính 18 tuổi nhìn nhận nhau, đối thoại với nhau về những vấn đề của quá khứ và hiện tại. Ngần ấy thời gian vật đổi sao dời, song ở họ những gì đã được khẳng định thủa ban đầu không hề thay đổi - vẫn là cái tâm trong sáng trong tình yêu đất nước, con người.
Kết cấu cuốn sách, như đã thấy, xác định tính chỉnh thể của nó như một tác phẩm. Một tác phẩm văn chương phi hư cấu. Nhờ những trang hồi kì “chèn vào”, mỗi sự kiện quan trọng kể trong nhật ký được “nhớ ra”, mở rộng và kể lại một cách sinh động, hấp dẫn, cho phép người đọc hình dung một cách đầy đủ tới từng chi tiết bức tranh rộng lớn, hào hùng của cuộc chiến, sự trưởng thành thần kì của lực lượng không quân, tính bi hùng của những hy sinh, tổn thất, và, trên hết, lắng sâu trong họ là hình ảnh những anh hùng trẻ tuổi, các sĩ quan chỉ huy – những “nhân vật” có thật, được khắc họa hết sức tự nhiên, bao chứa trong mình một trữ lượng dồi dào các chất liệu quý cho những hình tượng văn học trong tương lai.
Ta hãy dừng lại ở đoạn Nhật ký kể về sự cố phi công Nguyễn Đức Soát mở đầu những chiến công vang dội của mình trong năm 1972 khốc liệt bằng việc bắn nhầm MiG-19 của ta. Nhật ký đề ngày 19/1/1972 viết: “Trong đời chiến đấu của mình nếu có lúc nào đau khổ nhất, nỗi lòng dằn vặt nhất thì chính là lúc này. Muốn khóc lên mà không khóc được… Chiều nay mình và Thành xuất kích. Mình đã phát hiện được 2 máy bay, không rõ loại. Nghi ngờ không phải F4, hỏi 3 lần ở Bộ Tư lệnh, họ đều bảo là địch. Mình đã bắn 1 quả tên lửa làm cháy 1 máy bay. Hại thay đó là chiếc MiG-19 của ta. Máy bay cháy mới biết là nhầm. Bất ngờ như có ai đập mạnh vào đầu mình. Mình bay về như thằng mất hồn, miệng thì đắng mà mắt thì cay xè”. Khi vụ việc làm rõ mới biết lỗi là do Sở chỉ huy Trung đoàn MiG -19 tự tiện “thả” máy bay của mình lên trời để tìm địch mà “quên” không thông báo cho Bộ Tư lệnh, cho nên chỉ huy Bộ này mới khẳng định “như đinh đóng cột” 2 cái MiG-19 đuổi theo máy bay của Nguyễn Đức Soát là máy bay địch. Và để người đọc hiểu đúng và rõ hơn về trận này, phía dưới nhật ký có hơn 3 trang hồi ký đặt tên Trắng đêm, trong đó trích đăng lại báo cáo trận đánh từ kho lưu trữ của Bộ Tư lệnh Không quân và những bổ sung khá chi tiết của tác giả về các diễn biến trận đánh. Rõ ràng, Nhật ký không có ý định che đậy những non nớt của lực lượng không quân lúc ấy. Điều này càng cho thấy những khó khăn, gian nan mà những phi công tiêm kích phải vượt qua trong khi thực hiện nhiệm vụ, bởi ngoài máy bay địch đánh theo kiểu “lấy thịt đè người” với khí tài tối tân, kĩ thuật cao, thì bất cứ lúc nào họ cũng có thể bị bắn nhầm, không máy bay ta, thì cũng pháo cao xạ của ta (chẳng hạn trong trang nhật ký ngày 10.5.1972 có kể lại máy bay của Nguyễn Đức Soát phải né 2 quả tên lửa của ta khi sắp hạ cánh …).
Cũng trong đoạn hồi ký Trắng đêm, tác giả đã kể lại việc Phó Tổng tham mưu trưởng Phùng Thế Tài tới “hiện trường” để kiểm tra và giải quyết sự cố. Chân dung cùng tính cách của vị chỉ huy được khắc họa sinh động, rõ nét chỉ qua một vài câu thoại: “Sau khi nghe Trung đoàn trưởng Trần Hanh và tôi báo cáo lại trận đánh, sắc mặt Phó Tổng tham mưu trưởng Phùng Thế Tài hơi tái đi. Rồi bằng giọng nói dõng dạc, đầy uy lực, nhìn về phía tôi, ông bảo: “Anh kều đứng lên!”. Hồi ấy tôi cao 1m78 mà chỉ nặng 68kg. Tôi đứng bật dậy, tim đập hồi hộp, tay vịn vào mép bàn nhìn ông đầy lo lắng. Ông chậm rãi nói tiếp: “May cho cậu đã bắn rơi thằng MiG-19, nếu không, có bán nhà ở quê cũng không đủ tiền đền quả tên lửa bắn ra. Lần sau, thấy máy bay địch, cứ thế mà giã, không được chùn tay, nghe chưa? Còn thằng nào tùy tiện, vô kỉ luật, cho nó ra tòa án binh”. Những ai đã được tiếp xúc với đại tá Phùng Thế Tài khi đó, hẳn nhận ngay ra ông trong đoạn thoại ngắn ngủi này.
Trong những giờ phút không chiến ác liệt một mất một còn tính cách con người, khả năng chiến đấu của họ được bộc lộ rõ ràng nhất. Nhật ký ngày 21/6/1972 ghi: “Vậy là thằng Đỗ Văn Lanh đã đứng hàng đầu trong đợt chiến đấu này. Hôm nay, nó đã bắn được chiếc máy bay Mỹ thứ ba, mà lại bắn trong khi máy bay của nó đã bị cao xạ ở Việt Trì bắn nhầm làm vỡ đuôi đằng sau. Ngày xưa người ta đã nghi ngờ kỹ thuật của nó. Chiến tranh là cách giải tốt nhất giúp ta tìm đúng nghiệm số của phương trình”.
Điều này cũng thật đúng với trường hợp Nguyễn Tiến Sâm – một phi công dũng mãnh, người hùng của trận chiến ác liệt ngày 5/7/1972. Phía dưới trang nhật ký kể ngắn gọn về trận đánh, tác giả chèn vào đoạn hồi ký mô tả kĩ hơn tình huống có một không hai này. Vì bắn cháy chiếc F-4 ở cự li quá gần nên phi công Nguyễn Tiến Sâm buộc phải bay thẳng qua điểm nổ, bằng không những mảnh của chiếc máy địch bị bắn cháy chắc chắn sẽ văng vào máy bay của anh khiến nó tan xác. Tuy nhiên, “tránh vỏ dưa lại gặp vỏ dừa”, không bị mảnh F-4 xé xác thì chiếc MiG -21 lại bị dầu muội của nó phủ lên toàn bộ, khiến Nguyễn Tiến Sâm bay về sân bay Đa Phúc hạ cánh trong trạng thái “mù” hoàn toàn. Nếu không có sự chỉ huy dẫn đường đầy kinh nghiệm của Nguyễn Đức Soát chắc chắn anh đã phải bỏ máy bay, nhẩy dù. Song chuyện không dừng ở đó. Đoạn hồi ký đã tiết lộ một “bí mật” liên quan tới việc bắn trực diện ở cự li gần – điều tối kị trong không chiến mà bất cứ một phi công nào cũng phải nhớ làm nòng. Vậy điều gì đã thúc đẩy Nguyễn Tiến Sâm thực hiện hành động “liều mạng” này? Và hành động đã được tác giả “giải mã” trong một lần tới thăm bạn mình nằm bệnh viện: “Nhắc lại những ngày gian khổ cùng chiến đấu, tôi hỏi anh: “Ông còn nhớ cuối tháng 6 năm 1972, khi tôi bắn rơi 4 chiếc mà ông chưa bắn rơi chiếc nào, do cay cú, ông đã nói gì không? Anh trả lời: “Nhớ chứ! Cay cú lắm”. Tôi nhắc lại câu anh nói riêng với tôi: “Nay mai khi gặp địch, nếu bắn không trúng, tôi đâm mẹ cả máy bay vào nó chứ không chịu về tay không đâu”. Theo phản xạ, tôi nói ngay: “Đâm mẹ cả máy bay vào lấy đâu mà về? Rồi tôi động viên anh: “Ông bay giỏi, lại thông minh, tin tôi đi, khi có thời cơ, chắc chắn ông sẽ bắn rơi rất nhiều đấy”. Rồi tác giả Nhật ký tự hỏi, không biết cái ý nghĩ cay cú “tiêu cực” ấy đã chi phối hành động cụ thể của bạn mình trong trận đánh ngày 5/7/1972 như thế nào? Qua câu hỏi ấy người đọc tìm được câu trả lời: đó là tinh thần cảm tử, khát khao chiến thắng pha lẫn sự cay cú vì thua chúng bạn của người lính trẻ, là sự dũng mãnh đến độ liều lĩnh nhưng lại điềm tĩnh thông minh, ứng biến trong chớp nhoáng của anh. Một tính cách đa dạng và rất đời bộc lộ sáng chói trong phút giây sinh tử. Đoạn hồi ký kết thúc: “Đúng như tôi dự đoán và động viên. Nguyễn Tiến Sâm đã thực sự lột xác sau trận đánh ấy. Chỉ trong đúng 3 tháng, từ ngày 5/7/1972 đến 5/10/1972 anh đã bắn rơi được 5 chiếc F-4. Đây là một kỳ tích trong không quân. Anh được tuyên dương Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân ngày 11/1/1973, sau khi Mỹ phải tuyên bố ngừng ném bom miền Bắc Việt Nam chỉ 13 ngày” (tr. 284).
Nếu ở hành động của Nguyễn Tiến Sâm mang tinh thần cảm tử, thì Vũ Xuân Thiều đích thực là một phi công cảm tử. Ở trang nhật ký đề ngày 29/12/1972, tức giai đoạn cao trào của cuộc chiến tranh trên không, phía ta dốc toàn lực để tiêu diệt máy bay B-52 mà phía Mỹ kì vọng với chúng sẽ đưa miền Bắc Việt Nam trở về thời kì đồ đá, chỉ có những dòng thông tin ngắn gọn về trận đánh B-52 và những giả thiết về sự hi sinh của phi công Vũ Xuân Thiều, cùng với mấy dòng kể về anh: “Thiều là bạn thân của mình. Nó thông minh, sống chân tình và rất mực đức độ. Trong chuyện riêng mình đã mấy lần tìm đến Thiều…”. Tính cách người anh hùng cảm tử được “mở ra” trong đoạn hồi ký phía dưới, ở đó tác giả đưa ra giả thiết rằng chính Vũ Xuân Thiều là “phi công cảm tử”. Giả thiết này đặt trên cơ sở những gì diễn ra, nhất là từ những tuyên bố của các phi công, trong đó có Vũ Xuân Thiều, trong các buổi quân sự dân chủ bàn cách bắn hạ B-52: “Nếu bắn hết 2 quả tên lửa mà B-52 không rơi thì sẽ có ngay quả tên lửa thứ ba”. “Quả tên lửa thứ ba” ấy chính là chiếc MiG-21 nặng gần 10 tấn và một trái tim nóng bỏng căm thù quân xâm lược!
Hình ảnh xác một chiếc B-52 rơi gần chiếc MiG-21 tại Cò Nòi, Sơn La và sự không trở về của thượng úy phi công Vũ Xuân Thiều đã xác nhận giả thiết trên. Nếu tìm sự thống nhất giữa tính cách và hành động, thì hiện tượng Vũ Xuân Thiều là một điển hình. Năm 2010 anh đã trở thành nhân vật trong cuốn sách Vũ Xuân Thiều- phi công cảm tử của tác giả Nguyễn Công Huy, một đồng đội của anh. Tên anh đã được đặt ở đường phố của Sơn La, Nha Trang, Hà Nội; cũng tại Long Biên Hà Nội có một ngôi trường được mang tên anh.
Tác giả đã dành những trang cuối cùng của cuốn sách để tri ân đồng đội của mình, nơi âm hưởng hùng ca và bi tráng đường như được đẩy lên tận cùng, nơi mỗi con chữ dường như trĩu nặng nỗi nhớ đồng đội đã gắn bó với ông suốt những tháng ngày ác liệt của chiến tranh. Người lính già, sau hơn 50 năm, lần giở lại cuốn nhật ký và những gì chàng trai 18 tuổi khi ấy viết vẫn còn nguyên xúc cảm lãng mạn cao quý và giá trị cốt lõi đối với ông: “…Ôi bầu trời xanh thân yêu. Có thể so sánh tình yêu của ta với người với ai được không? Không - không thể được. Người là tất cả. Ta sẽ sống với người và chết với người. Giờ đây người là nguồn an ủi duy nhất của ta!”. Giờ đây bầu trời – “đại dương thứ năm” mênh mông ấy càng gắn bó với ông hơn, bởi nơi ấy những người bạn thân thiết của ông đã vĩnh viễn ở lại, hóa thành những cánh cò, cánh vạc, hay đàn sếu trắng đang bay như trong bài hát Nga phổ thơ Rasul Gamzatov. Giá lúc này đây tôi có thể mở bài hát ấy cho ông- nghe:
Những người lính, đôi khi tôi cứ ngỡ,
Từ chiến trường đẫm máu không về,
không phải họ nghỉ yên trong lòng đất,
Mà hóa thành sếu trắng đang bay.
Vẫn như từ thủa xa xôi ấy,
Sếu vẫn bay và cất tiếng gọi ta.
Có phải thế mà ta thường buồn bã,
Và lặng im nhìn phía trời xa?
……..
Nguồn Văn nghệ số 12/2022