March 29, 2024, 1:16 pm

Hình ảnh con người trong văn học trung đại Việt Nam

Con người là đối tượng lớn nhất, quan trọng nhất trong bất cứ thời đại văn học, bất cứ nền văn học nào. Văn học dù viết về con người hay không viết về con người thì cuối cùng mục đích cao cả nhất của nhà văn vẫn là viết “một áng văn trung thực và giản dị về con người” (Chữ dùng của Hemingway).

Nghiên cứu văn học trung đại Việt Nam, có thể nhìn thấy hai dòng riêng giữa một dòng chung. Một dòng hướng về những chuẩn mực, hướng về những chủ đề, quan niệm mang tính công thức. Dòng này tạo nên kiểu văn học mang tính quan phương, cung đình, chủ yếu là tụng ca vua sáng tôi hiền, đề cao lễ nghĩa nhà Nho. Con người xuất hiện trong dòng văn học này, lẽ dĩ nhiên là con người cộng đồng, con người quân quốc… mang lí tưởng “trí quân trạch dân”, mang khát vọng xây dựng một xã hội “Nghiêu Thuấn”. Dòng thứ hai vượt thoát ra ngoài khuôn phép, luật lệ để những cảm xúc thật, những tình cảm thật được thăng hoa. Ở dòng thứ hai này, con người cá nhân có dịp bứt phá, quẫy đạp bằng một cái tôi tự do mạnh mẽ, phóng khoáng. Nếu lấy những quy tắc, điển phạm trong mỹ học phong kiến làm tâm thì có thể xem dòng văn học thứ nhất là dòng “văn học hướng tâm” và dòng văn học thứ hai là dòng “văn học ly tâm” (Chữ dùng của Nguyễn Hữu Sơn).

Sự thể hiện con người trong văn học trung đại theo chiều “hướng tâm” hay “li tâm” gắn liền với cá tính sáng tạo của nhà văn, đồng thời gắn liền với sự vận động của lịch sử. Mỗi thời đại văn học với những điều kiện lịch sử, xã hội, văn hóa riêng sẽ hình thành quan niệm nghệ thuật về con người của riêng thời đại ấy. Có thể nhận thấy điều này qua nghiên cứu sự vận động của văn học trung đại Việt Nam trong suốt mười thế kỉ hình thành và phát triển của nó. Từ thế kỉ X đến thế kỉ XV là giai đoạn phục hưng và phát triển đất nước sau nghìn năm Bắc thuộc. Giai đoạn này cũng là giai đoạn mà dân tộc ta không ngừng đấu tranh chống các thế lực ngoại xâm phương Bắc để gìn giữ cõi bờ. Chính vì thế, cảm hứng chính trong văn học là cảm hứng yêu nước, con người được đề cao trong văn học là con người cộng đồng - con người “hướng tâm”, tức là những con người sống theo những chuẩn mực đạo đức của cộng đồng (thời trung đại chuẩn mực ấy là đạo đức Nho giáo). Từ thế kỉ XVI về sau, hiện thực trở nên phức tạp hơn rất nhiều, xã hội phong kiến rơi vào khủng hoảng, các thế lực phong kiến chém giết, tàn hại lẫn nhau. Mâu thuẫn giữa giai cấp thống trị và giai cấp bị trị trở nên căng thẳng hơn bao giờ hết. Vận mệnh, quyền sống của con người bị đặt bên bờ vực thẳm. Lúc này văn học nói lên tiếng nói của mình để bênh vực, ngợi ca, yêu thương, trân trọng con người. Chính vì thế văn học chuyển từ cảm hứng yêu nước sang cảm hứng nhân văn, nhân đạo. Con người được đề cao trong văn học là con người cá nhân. Những con người có sự cựa quậy về cái tôi bản ngã, phản ứng lại lễ giáo phong kiến, những con người mất dần niềm tin vào những giá trị của đạo đức nhà Nho, cảm nhận được sự cô độc, bi thảm của cuộc đời đồng thời không ngừng khát khao về tình yêu và hạnh phúc. Dưới đây là một số hình ảnh con người tiêu biểu trong văn học trung đại Việt Nam

 

Con người sử thi

Con người sử thi là hình ảnh những con người đại diện cho sức mạnh, bản lĩnh, phẩm chất của cả cộng đồng, dân tộc trong những thời điểm đặc biệt của lịch sử như thời chiến tranh vệ quốc hay giai đoạn trùng hưng đất nước. Đây là mẫu người lý tưởng mang tầm vóc thời đại, là những người “khổng lồ” mà qua đó ta nhìn thấy vẻ đẹp của cả một thời đại oanh liệt, hào hùng. 

Trong bài thơ Thuật hoài của Phạm Ngũ Lão, tác giả đã thể hiện sâu sắc hình ảnh con người sử thi qua hình tượng người tráng sĩ thời Trần với vẻ đẹp hùng tráng, hào sảng được thể hiện qua một thế đứng hiên ngang, lẫm liệt “Cầm ngang ngọn giáo bảo vệ non sông đã mấy thu”. Người tráng sĩ dù rong ruổi sa trường chưa lúc nào ngơi nghỉ mà vẫn tự nhận rằng chưa trả xong nợ công danh, vẫn cảm thấy “thẹn khi nghe chuyện Vũ Hầu”. Nghĩa là con người ấy vẫn chưa tự bằng lòng với chính mình, vẫn thấy mình cống hiến chưa đủ, vẫn khao khát lập nhiều chiến công hơn nữa. Nỗi thẹn ấy vì thế là nỗi thẹn cao cả, nỗi thẹn làm nên nhân cách khiến hình tượng người tráng sĩ trở nên đẹp rạng rỡ, hào hùng.

Cuối thời Trần, khi non sông rơi vào tay giặc, hình ảnh con người sử thi lại được thể hiện sâu sắc qua vẻ đẹp bi tráng của người tráng sĩ trong bài thơ Cảm hoài của Đặng Dung. Đó là hình ảnh một con người tuy lâm vào hoàn cảnh bế tắc nhưng nhiệt tình cứu nước vẫn sục sôi, hào khí vẫn lẫm liệt. Người tráng sĩ mang hoài bão lớn lao muốn giúp chúa xoay chuyển tình thế, khôi phục đất nước nhưng lại cảm thấy bất lực vì “việc đời còn rối bời mà ta đã già rồi”. Ấy vậy mà khí phách, khát vọng của người anh hùng vẫn tỏa sáng ngay trong cảnh ngộ thất cơ, lỡ vận “Quốc thù vị báo đầu tiên bạch/ Kỉ độ long tuyền đái nguyệt ma” (Thù nước trả chưa xong mà đầu đã bạc/ Bao đêm rồi ngồi mài gươm dưới bóng trăng). Trong hai câu thơ, người anh hùng hiện lên tuyệt đẹp; lồng lộng, hiên ngang ngay cả khi rơi vào bi kịch. Nhiệt tình cứu nước không lúc nào suy giảm dù tóc trên đầu đã bạc vì sương gió chiến chinh.

 

Con người ưu ái

Con người ưu ái là những con người nặng lòng với non sông đất nước, lúc nào cũng thường trực một tình yêu, một nỗi âu lo dành cho cuộc sống của nhân dân. Họ mang trong mình lý tưởng “trí quân trạch dân”, khát khao xây dựng một xã hội thịnh trị, giúp cho cuộc sống nhân dân yên ổn, thanh bình. Và khi xã hội rơi vào loạn lạc, cuộc sống nhân dân lầm than, lòng họ nặng trĩu bao nhiêu xót xa, cay đắng. 

Trong văn học trung đại Việt Nam, hình ảnh con người ưu ái ấy xuất hiện trong thơ Trần Nguyên Đán “Tam vạn quyển thư vô dụng xứ/ Bạch đầu không phụ ái dân tâm” (Đọc ba vạn cuốn sách mà thành vô dụng/ Bạc đầu luống phụ lòng thương dân - Nhâm dần lục nguyệt tác), trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm “Ưu thời thốn niệm bằng thùy tả/ Duy hữu hàn san bán dạ chung” (Nỗi lòng lo đời biết nói cùng ai/ Chỉ có tiếng chuông chùa trên núi vắng lúc nửa đêm san sẻ - Tân Quán ngụ hứng). Nhưng sâu sắc nhất có lẽ là trong thơ Nôm Nguyễn Trãi. Trong thơ Nguyễn Trãi, ta thường xuyên bắt gặp hình ảnh một con người ưu ái, suốt đời âu lo cho vận mệnh của đất nước, cho hạnh phúc nhân dân. Nguyễn Trãi từng viết câu thơ nổi tiếng “bình sinh độc bão tiên ưu chí” (Hải khẩu dạ bạc hửu cảm). Ông nguyện trở thành người “lo thì lo trước thiên hạ, vui thì vui sau thiên hạ”. Sở nguyện của đời ông là làm sao cho đất nước trị bình, cuộc sống nhân dân được hạnh phúc, ấm êm “Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng/Dân giàu đủ khắp đòi phương” (Bảo kính cảnh giới 43). Nỗi lòng ấy ông gọi là “lòng ưu ái”, “lòng trung hiếu”: “Bui một tấc lòng trung lẫn hiếu/ Mài chăng khuyết, nhuộm chăng đen” (Thuật hứng 24), “Bui một tấc lòng ưu ái cũ/ Đêm ngày cuồn cuộn nước triều đông” (Thuật hứng 5). Từ hình ảnh con người ưu ái trong thơ Nôm Nguyễn Trãi, ta nhìn thấy ở ông một nhân cách trong sáng, một tấm lòng cao đẹp, nói như Lê Thánh Tông “Ức Trai tâm thượng quang khuê tảo”.

 

Con người tự phản tỉnh

Phản tỉnh là tự thức tỉnh để nhìn lại, nhận thức lại, phán xét lại chính mình từ đó nhận ra sai lầm mà ăn năn, sám hối, từ đó hướng đến những giá trị cao đẹp hơn. Tinh thần phản tỉnh là một một biểu hiện nhân văn góp phần hình thành vẻ đẹp nhân cách của con người. Hình ảnh con người tự phản tỉnh ấy được thể hiện sâu sắc trong rất nhiều tác phẩm văn học trung đại.

Trong Dạ Vũ của Trần Minh Tông, tinh thần tự phản tỉnh thể hiện trong hình ảnh một con người thao thức, một mình nằm nghe mưa rơi để nhận ra lỗi lầm của mình 30 năm về trước khiến  cõi lòng giằng xé trong bao nhiêu day dứt, ăn năn: “Thu khí hòa đăng thất thự minh/ Bích tiêu song ngoại đệ tàn canh/ Tự tri tam thập niên tiền thác/ Khẳng bả nhàn sầu đối vũ thanh” (Hơi thu hòa vào ngọn đèn làm mờ đi ánh sáng ban mai/ Giọt mưa trên tàu chuối xanh ngoài cửa sổ tiễn canh tàn/ Tự biết sai lầm của mình ba mươi năm trước/ Đành ôm nỗi sầu ngồi nghe mưa rơi).

Người cung nữ trong Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều ban đầu đặt rất nhiều niềm tin, hy vọng vào “đấng quân vương”, mơ ước được sống một cuộc sống nhung lụa vàng son theo kiểu “Một ngày tựa mạn thuyền rồng/ Còn hơn mãn kiếp ngồi trong thuyền chài”. Nàng mong muốn được sống giàu sang vinh hiển, khát vọng đạt được hạnh phúc tột đỉnh. Đối với nàng, cuộc sống đúng nghĩa phải là cuộc sống nơi lầu vàng gác tía, nàng coi thường cuộc sống thường dân: “Lan mấy đóa lạc loài sơn dã/ Uổng mùi hương vương giả lắm thay”. Thế nhưng  khi bị thất sủng, phải đối mặt với một thực tại chua xót, bẽ bàng, đối mặt với bao nhiêu đau khổ, uất ức,  nàng dần dần đánh mất niềm tin vào những thứ trước đây nàng tin tưởng. Giấc mộng lầu son giờ đổ vỡ, mọi ảo tưởng, ngộ nhận tiêu tan. Nàng bắt đầu phản tỉnh để nhận thức được rằng hóa ra những thứ mà trước đây nàng cho là tốt đẹp, cao quý lại là những thứ “mồi”, thứ “bả”. Nàng hiểu ra rằng hạnh phúc không phải được tạo nên từ lầu vàng điện ngọc, từ phù phiếm, xa hoa. Hạnh phúc chỉ đến từ tình yêu chân thành, chung thủy. Cuộc sống êm đẹp nhất là cuộc sống vui vẻ sum vầy, có chồng có vợ. “Kìa điểu thú là loài vạn vật/ Dẫu vô tri cũng biết đèo bòng/ Có âm dương có vợ chồng/ Dẫu từ thiên địa cũng vòng phu thê”.

 

Con người cô đơn, lạc lõng

Hình ảnh con người cô đơn, lạc lõng trong văn học trung đại thường xuất hiện khi xã hội phong kiến Việt Nam ở vào giai đoạn suy tàn. Mọi trật tự tôn ti sụp đổ, mọi giá trị lộn nhào. Lúc ấy con người, đặc biệt là những người trí thức vốn đặt niềm tin vào lý tưởng nhà Nho cảm thấy lạc lõng, bơ vơ, mất phương hướng, khủng hoảng niềm tin một cách trầm trọng.  Đó là hình ảnh một con người bơ vơ, lạc lõng, không biết trôi dạt về đâu trong thơ Lê Hữu Trác: “Tìm đường về Hán chưa xong/ Sang Tần là việc đã không nên rồi/ Bể hồ trôi dạt đôi nơi/ Cho người tráng chí ra người cuồng ngông” (Y tông tâm lĩnh). Đó là con người mang nặng một nỗi bấn loạn khiến cõi lòng nhàu nhĩ, bi thương trong thơ Nguyễn Du:“Tráng sĩ bạch đầu bi hướng thiên/ Hùng tâm sinh kế lưỡng mang nhiên” (Người tráng sĩ đầu bạc buồn ngẩng mặt nhìn trời/ Hùng tâm, sinh kế cả hai đều mờ mịt cả - Tạp thi). Đó là một con người sụp đổ niềm tin, chán ngán trước tất cả trong thơ Nguyễn Công Trứ“Ngồi buồn mà trách ông xanh/ Khi vui muốn khóc, buồn tênh lại cười/ Kiếp sau xin chớ làm người/ Làm cây thông đứng giữa trời mà reo” (Vịnh cây thông).

Hình ảnh con người cô đơn lạc lõng trong văn học trung đại cũng thường xuất hiện khi mà quyền sống, quyền được hưởng tình yêu, hạnh phúc của con người bị chà đạp. Lúc ấy, hạnh phúc đổ vỡ, tình duyên hẩm hiu, con người trở về với chính cõi lòng mình để nỗi cô đơn dâng trào trong tâm trạng. Trong bài thơ Tự tình 2 của Hồ Xuân Hương, ta bắt gặp hình ảnh một người phụ nữ đơn độc, lẻ loi, trơ “cái hồng nhan” ra cùng tuế nguyệt. Nàng chìm sâu vào bị kịch với bao nhiêu tuyệt vọng, chán chường “Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại/ Mảnh tình san sẻ tí con con”. Nàng Kiều trong kiệt tác Truyện Kiều của Nguyễn Du cũng không ít lần rơi vào trạng thái cô đơn, tuyệt vọng như vậy. Đó là sau khi tự mình trao duyên, trao tình yêu cho em, nàng trở về với chính cõi lòng mình để bao nhiêu buồn tủi, xót xa lan tỏa trong tâm hồn “Phận sao phận bạc như vôi/ Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng”. Đó là giây phút nàng tỉnh rượu sau  những “cuộc vui đầy tháng trận cười suốt đêm, đối diện với một đêm khuya quạnh vắng, nỗi cô đơn như tan chảy trong sâu thẳm cõi lòng “Khi tỉnh rượu lúc tàn canh/ Giật mình mình lại thương mình xót xa”.

Nhìn lại toàn bộ tiến trình văn học trung đại Việt Nam, có thể nhìn thấy một sự vận động không ngừng của quan niệm nghệ thuật về con người. Hình tượng con người trong văn học phát triển theo chiều hướng ngày càng mang bản sắc riêng, có sự dịch chuyển từ tuân thủ chuẩn mực đến sáng tạo trong thể hiện khiến hình tượng con người ngày càng trở nên phong phú và giàu sức hấp dẫn hơn. Sự đa dạng, phong phú trong sự thể hiện con người ấy đã góp phần tạo nên giá trị nhân đạo sâu sắc, tạo nên vẻ đẹp nhân văn lấp lánh trong nền văn học.

________

* Trường THPT chuyên Lương Văn Chánh, Phú Yên.

Nguồn Văn nghệ số 16/2020


Có thể bạn quan tâm