April 20, 2024, 11:05 am

Hẹn ngày quyết đấu

 

            Trong giấc mơ, tôi và Tế cùng đi với chú Kiền đến nơi quyết đấu. Chúng tôi tới sớm ngồi trong quán rượu đợi bọn họ. Tiếng chó sủa văng vẳng từ xa. Đĩa lạc rang trên bàn chưa ai đụng tay. Chú Kiền nâng chén liên tục, hai mắt không rời khoảng đất trống giữa ngã ba đường. Đáng nhẽ họ đã nên xuất hiện. Cảm giác chờ đợi khiến chúng tôi khó chịu. Tôi nhìn khuôn mặt không chút sợ hãi của Tế mà tự trách mình hèn. Thú thực tôi sợ, tôi mong họ không đến thì tốt hơn. Nhưng từ giữa màn sương mỏng họ đi ra. Năm người tất cả, kẻ ở giữa có khuôn mặt hung giữ và thân hình to lớn khiến nỗi sợ của tôi được nhân lên.

Uống một với nhau một chén đi mà ông anh. Gã thanh niên mặt đỏ phừng nói với chú Kiền.

            Lúc này tôi chỉ ước chú Kiều cầm lấy chén rượu vui vẻ mà uống với hắn xong còn ngọt nhạt mời lại hắn một chén càng hay. Nhưng tôi biết chú Kiền quá, nên giờ toàn thân tôi run lên.

 Chén rượu đầy tràn vẫn hưa trước mặt chú đã thành ra một món vũ khí trong mắt tôi. Khuôn mặt của kẻ đang giữ nó đã chuyển sang đỏ tía. Tôi ngồi cách một cái bàn mà nghe thấy tiếng nghiến răng của hắn. Nhìn sang chú Kiền thấy chú vẫn ngồi điềm nhiên, như thể một tảng đá chơ vơ giữa dòng suối biết cơn lũ từ nguồn đang đổ về mà vẫn chẳng tỏ chút sợ hãi. Tôi ước lúc này bọn tôi có năm người chứ không phải bọn chúng, lúc ấy chú Kiền sẽ không bị đánh. Lúc sau tôi nghĩ chúng chỉ có ba người cũng đã khác, lúc ấy chú Kiền bị đánh ít hơn còn tôi và Tế thì chạy được. Chẳng biết thế nào cho phải, nhưng giờ tôi càng lúc càng run. Trăng sáng kì lạ, gió thổi phất phơ đuôi cọ mái lều. Chú Kiền bật dậy phanh ngực áo ra sau khi hất bay chén rượu trên tay gã kia. Lộn một vòng chú đã đứng hùng dũng giữa ngã ba đường. Bốn tên đàn em đồng loạt lao vào, trên tay chúng là ghế, là khúc củi, là dao găm. Dưới bóng trăng loang loáng tôi và Tế nhìn thấy chú Kiền trong bộ quần áo màu xanh bộ đội cũ mèm chân đá, tay gạt vừa nhanh vừa đẹp. Bao giờ trăng sáng chú Kiền múa võ cũng đẹp, một mình chú lộn bên này nhảy bên kia một chốc sau chỉ còn lại gã đối thủ của chú to con bặm trợn trụ lại được. Người hắn ướt nhẹp, mắt hoảng hốt nhìn bốn tên đàn em lăn lộn dưới đất. Chú Kiền thủ thế đẹp chờ đường tấn công bẩn thỉu bằng dao của gã. Hộc lên một tiếng gã đối thủ lao vào chú, khoảng cách hai người chỉ bằng một cú nhảy, tay gã cầm dao nhọn sáng loáng. Chú Kiền phanh ngực áo xanh bộ đội thủ thế, hai bàn tay xòe ra, hai mắt nhìn thẳng đối thủ. Hấp một tiếng chú nhảy vọt lên tung cú đá trúng tay cầm dao của gã. Ba động tác nữa đã thấy chú dùng bàn tay chém vào cái cổ to bè, khiến hắn nằm bụp xuống đất không ngọ nguậy. Phủi tay, cài cúc áo, chú tiến lại xoa đầu hai thằng. Trăng sáng lạ lùng nhìn thấy cả sương bốc lên sau mái cọ và bụi cây chó đẻ bên đường. Rồi tiếng vó ngựa vang lên. Ngựa trắng đẹp đẽ từ đâu xuất hiện, bốn vó bay là là trên mặt đường nhưng vẫn khiến bụi tung lên lẫn vào sương mù mịt, chốc lát con ngựa đã đứng dụi đầu vào vai chú Kiền. Chú Kiền xoa đầu ngựa trắng, rồi đến gần cười với hai thằng. Mùi mồ hôi chú còn vương mà chớp mắt đã thấy chú ngồi trên lưng ngựa, ngựa trắng tung vó trước hí vang rồi phi biến vào bóng tối. Hai thằng chạy theo chỉ thấy bóng trắng vun vút trên mặt đường rồi bay thẳng về phía Bắc và mất hút. Tế lay tôi dậy, người tôi đầy mùi rượu đầu nhức như búa bổ. Giấc mơ vẫn lởn vởn trong đầu, tôi nhìn một lượt khung cảnh xung quanh mình. Căn lều chìm trong mùi rượu mà ba chú cháu uống. Tôi hốt hoảng hỏi chú Kiền đâu. Tế đáp đi rồi, đuổi nhanh còn kịp.

                                                           

Trưa. Gió xào xạc. Tôi và Tế chơi dưới bụi tre già. Nắng từng tia rơi trên quần áo cũ kỹ của chúng tôi, trên tóc tôi. Tế đang chổ tài tránh những chiếc lá tre rụng xuống mỗi khi gió to. Tôi ngắm Tế làm việc đó như thể không phải nó tránh những chiếc lá khô rơi xuống mà tránh những tia nắng nhảy nhót theo mỗi nhịp chuyển động của tán tre già. Lúc sau mệt, nó ngồi bên tôi trên tảng đá. Mắt nhìn xa xăm. Đó cũng là ngày đầu tiên chúng tôi thành đôi bạn sau cuộc quyết đấu phân thắng thua, hai đứa trẻ nghịch nhất bản hằng ngày cầm đầu một đám trong xóm reo hò đuổi nhau khắp đường làng thành bạn. Ngày ấy tôi và Tế còn chưa biết rằng mỗi tháng đều đặn trăng sẽ xuất hiện một lần. Những tháng mùa đông, mù mịt sương không thấy trăng, hai thằng gom lá khô đốt lửa tập võ trong đêm. Ngày chúng tôi đấu võ không ai có mặt để can. Cuộc vật lộn kết thúc, tôi có một vết sẹo sau lưng và Tế có một vết dài trên mặt. Chú Kiền xuất hiện khi cả hai đang ôm vết thương khóc. Chú Kiền nói có tranh gái nhau cũng không nên làm vậy. Rồi nói tôi bị thương ở sau lưng oai hơn thằng Tế. Tế mếu máo hỏi tại sao. Chú bảo nó không ra tay sau lưng mày nên anh hùng hơn. Tôi có chút nở mày nở mặt cười một cái rồi lập tức khóc ngay vì đau. Nước mắt chảy ra như nhựa cây bị dao bập vào. Từ đấy tối nào chú Kiền cũng dạy võ cho hai thằng chúng tôi. Còn nói sau này có chiến tranh không biết võ chết nhanh như gà.

 Tôi không chuyên chú lắm, Tế thì khác, nó thích học hơn tôi. Những lúc nghỉ ngơi, tôi hỏi nó sợ ai nhất trên đời, nó không trả lời được. Tôi liền nghĩ nó chính là loại người sinh ra không để trả lời những câu hỏi như vậy. Cái bản nghèo này hai thằng chúng tôi bị cho là điên chuyên đi theo chú Kiền. Chú Kiền dở dở, điên điên. Chú Kiền đi bộ đội về ban đêm đi tán gái bị người ta đánh bẫy nhốt dưới hố dấu thóc từ thời chiến tranh một tuần không chết. Ngày thứ bảy, một cơn mưa lớn trút nước đầy hố sâu, giúp chú thoát khỏi cái hố giống mồ chôn đứng ấy. Chú mò được hai con giun chết ngạt nuốt ngon lành và tự bò về căn nhà ở cuối thôn từ đấy chẳng đi tán gái kiếm vợ bản khác nữa. Chú Kiền làm dăm ngày, nghỉ chơi bảy ngày nên chẳng bao giờ có thứ gì trong căn nhà hai gian rách rưới thưng vách nứa của chú. Mỗi đêm trăng tròn chú Kiền lại lên cơn điên vác cái đòn gánh đi khắp làng săn biệt kích. Có lần chú chui vào chuồng trâu nhà người ta đập một con trâu khiến nó lồng lên đứt cả mũi. Chủ trâu đánh chú một trận. Lần khác chú lao vào nhà tắm thưng bằng vách cọ của chú Lều, vợ chú đang tắm trong ấy nần nẫn da thịt thì chú nhảy vào giơ đòn gánh lên định phang. Vợ chú Lều kêu toáng lên, hai tay che chắn cơ thể ngồn ngộn, rồi xô cả vách cọ nhảy xuống ao trốn. Chú Lều đang gác chân nằm đợi vợ trên nhà nghe thế lao xuống đánh nhau với chú Kiền.

Chú Kiền say ánh trăng đánh võ thì đẹp nhưng không hiệu quả, toàn đánh vào chỗ trống. Chú Lều chuyên nấu rượu, ngày nào cũng thử một bơ đầy có men hăng máu nhanh nhẹn hơn bình thường nhiều, đá vù vù, đấm bùm bụp. Chú Kiền múa võ đến là đẹp, chân tay loang loáng dưới ánh trăng, nhưng sau cùng bị chú Lều cầm dao quắm chém vào lưng móc đầu dao dính bả vai lúc chú chạy về nhà dao còn chưa rơi. Đận ấy chú Kiền gần chết, chẳng ai chăm sóc, vết thương mưng mủ thối hoắc. Chú Lều thuê chúng tôi đến xem, vì sợ chú Kiền chết khó tránh khỏi liên lụy. Tôi và Tế, hai thằng đã nổi tiếng trong bản vì từng nhận lời thách của các anh lớn hơn ngủ bãi tha ma, vào hang tìm trăn ba ngày mới ra. Hay cùng nhau bắt mèo tẩm dầu, châm lửa đốt rồi thả lên mái nhà người ta, nên mấy chuyện không có đứa trẻ nào muốn làm, không người lớn nào thèm để ý thì chúng tôi nhận làm. Chú Lều hứa cho tôi con dao bằng đồng có chuôi trạm đầu rồng. Còn Tế xin chú sau này gả con gái cho. Chú Lều nhìn nó từ đầu đến chân, từ chân đến đầu rồi gật đầu đồng ý. Cái Phiêng, con gái chú Lều gương mặt thanh thoát chẳng giống chú tẹo nào, nước da thì giống mẹ. Có lần đi qua suối nó vén váy lên đến gần bẹn trắng nõn nà, Tế bắt gặp về cả mười ngày chỉ nhắc đến cặp đùi ấy. Tế còn bắt chú Lều bắt tay đàng hoàng như… như cán bộ xã làm việc với nhau xong rồi mới chấp nhận cùng tôi đến căn nhà cuối làng của chú Kiền.

 Nhà gì hôi như nhà mồ. Khéo ông ta chết rồi. Hay mình cứ về, bảo chết rồi là xong nhỉ. Tế bảo không được mày có con dao rồi nói sao chả đươc, sau này ông này không chết, chú Lều không gả cái Phiêng cho tao thì sao. Tế một tay bịt mũi, một tay xô đổ cánh cửa đan bằng nứa rời rạc tiến vào trong nhà. Mùi thối bốc nặng, nhặng bay vù vù. Chú Kiền nằm sấp, mặt trắng ợt miệng há chề, giương cặp mắt đùng đục cá chết lên nhìn nó. Tế cầm cái chổi bó bằng tàu cọ phẩy một cái nữa bọn nhặng xanh bay tản ra xa. Vết thương hôi thối, máu khô đóng mảng đen sì, dòi bò ra nhung nhúc.

Tôi đến bên chỗ bếp lửa cầm cái ống điếu đổ hết nước trong ấy lên vết thương của chú Kiền khiến chú từ một người sắp chết bật dậy la hét như con choi choi. Toàn bộ căn nhà rung lên. Toàn bộ bị phủ bởi mùi nước ống điếu và thịt thối. Được một lúc thì chú Kiền kiệt sức lại nằm bẹp như cũ, chúng tôi dìu chú ra khỏi nhà, hết sức kéo đến bờ suối rồi ném chú xuống một vũng nước gần đó. Tế bảo chú rửa vết thương đi, tôi bảo chú tranh thủ uống nước cho đỡ khô miệng. Chú Kiền chẳng nói được gì, gầy đét quằn quại trong bộ quần áo màu xanh nổi lềnh bềnh trên mặt nước trong vắt.

Tôi chạy đi tìm chú Lều, chú không dám đến. Vợ chú với cái Phiêng đến, cả hai mặt lúc xanh lúc trắng khi thấy chú Kiền được lột trần phơi trên tảng đá xám cạnh vũng nước. Mùi thối đã bớt nhưng vẫn khiến họ nôn ọe. Vợ chú Lều đưa cánh tay mũm mĩm bịt mũi rồi quay đầu chạy đi. Phiêng gọi với theo hỏi mẹ chạy đi đâu. Tao đi tìm thuốc. Con đi theo mẹ. Thôi ở đây hoặc về nhà cũng được, rõ khổ. Tế thấy Phiêng đến thì ngẩn ra nhìn một lúc rồi đứng lên, ưỡn ngực tiến về phía đứa con gái mặt bầu bĩnh chẳng giống bố tẹo nào. Nhà có rượu không. Nó lập bập hỏi đứa con gái đang lấy tay bịt mũi. Còn ít nhưng bố bảo để dành uống rằm. Ông này mà chết thì vào tù mà uống. Thế phải lấy về à. Ừ, mang về đây cho ông ta uống đỡ đau. Sao biết uống rượu hết đau. Đàn ông mới biết. Chả tin. Phiêng nói thế nhưng cũng quay người chạy đi. Tế nhìn theo cặp mông nũng nính của nó cho tới khi khuất sau bụi cây chó đẻ già mới thôi.

Rượu được đem tới, chú Kiền uống no nước đã nói được. Một lúc sau, Phiêng đưa can rượu cho tôi, hai tay run run hỏi có sao không, chết không? Cả hai lội vũng nước tiến về phía cơ thể đang phơi trên đá. Sau khi tu ừng ực mấy hợp rươu, chú Kiền thều thào bảo đổ vào vết thương, Tế và tôi đổ rượu vào miệng vết thương thâm tím. Phiêng quay mặt đi nôn ọe, hai má đỏ ửng rồi quay người lội suối đi lên bờ. Quần màu đen hút nước bó chặt lại cặp mông căng đét khiến Tế ngẩn ra, đúng lúc chú Kiền bị rượu làm đau vết thương giãy giụa đạp một phát nó ào xuống vũng.

            Chẳng biết chú Kiền hôm ấy thoát chết nhờ rượu của Phiêng mang đến hay nhờ ống nước điếu tôi đổ vào cho bớt hôi, nhưng từ đấy chú là đại ca của chúng tôi. Mấy hôm sau khi được thuốc thang và băng bó chú khỏe hơn bắt đầu kể cho chúng tôi những chuyện chẳng đầu, chẳng cuối nhưng hay. Chính những mẩu chuyện ấy đã giữ tôi và Tế ở bên chú. Hồi chú Kiền bằng tuổi bọn tôi, ngày rằm tháng bảy một con ngựa đi lạc vào bản. Ngựa trắng toát, đẹp lắm. Cả bản bỏ mâm rượu đuổi bắt nhưng ngựa phi nhanh chẳng ai theo được, chỉ có bố chú Kiền và một người nữa từ mâm rượu song phi qua cửa sổ ra vun vút thi nhau đuổi theo ngựa trắng. Bố chú Kiền giỏi võ nhất bản, người già đồn rằng đang ngồi xếp bằng giữa nhà chỉ cần vỗ tay một cái vào đùi là ông đã có thể nhảy tót lên xà nhà ngồi. Bản bên có người giỏi không kém, từ lúc mười tám tuổi có kỳ cuộc nào họ cũng đấu võ phân thắng bại mà không xong.

Trời cho ngựa trắng này xuất hiện coi như là một dịp phân định cao thấp, hai tay võ thi nhau nhảy lên lưng con ngựa nhưng chỉ cưỡi được một đoạn đều bị hất xuống. Trời trưa, bóng thẳng, ngựa trắng chốc lát đã khuất sau chân núi. Hai tay võ tiếc không khuất phục được con ngựa, tiếp tục đấu võ trên mô đất giữa làng. Bản kéo nhau ra xem như xem hội, rằm năm đó náo nhiệt biết bao. Năm sau nữa cũng ngày rằm tháng bảy, con ngựa ấy lại chạy qua bản, không cương không yên, phi nước đại trên con đường đất khiến cho cả bản bỏ uống rượu đuổi theo. Bố chú Kiền và người đàn ông chỉ chờ giấy phút ấy phi thân đuổi con tuấn mã. Hai người đàn ông mặc áo chàm, vun vút lao theo ngựa trắng hình ảnh đó chỉ những người may mắn mới thấy được. Đến giữa bản thì đuổi kịp, người túm lấy mao, người túm đuôi ngồi trên lưng ngựa đánh nhau giữa cánh đồng xanh ngắt. Được nửa đường, bố chú Kiền tung một đường quyền giữa ngực khiến người ấy hất khỏi lưng ngựa toàn thân lăn lông lốc như củi lăn dốc, từ đây không đi đứng được nữa.

Cả bản nghèo này rộ lên một thời gian nhờ con vật qua đường ấy, mỗi năm cứ ngày rằm người ta lại bỏ việc ra ngồi ở hai bên đường làng chờ nó xuất hiện. Nhưng cũng đã ngót nghét mười năm chưa thấy nó quay lại. Con ngựa ấy đối với những người đã nhìn thấy và được đuổi theo là một huyên thọai của cái làng bé nhỏ và nghèo đến là nghèo này. Chú Kiền lại kể chuyện chú đi bộ đội đánh nhau với giặc ở trên chốt. Trời tối pháo giặc dội xuống như mưa, đồng đội chú chết, xác chất thành núi, khi mưa đổ xuống thật, xác chết trôi chuồi chuội xuống dốc, xác nối xác nhìn sợ đến teo mật. Đêm sáng trăng, một mình chú sống sót, đứng trên cao điểm, tay cầm khẩu Aka nghiến răng nhìn xác đồng đội, nhìn lâu thấy từng thân xác nát bấy như muốn cùng nhau dựng dậy. Chú Kiền lại kể chuyện chú có thù với một người. Người đấy chẳng ai khác là con của người đấu võ với bố chú trên lưng ngựa trắng, chính hắn là chủ mưu nhốt chú dưới hố dấu gạo của làng bên. Chú nói hai người sẽ đánh nhau tay bo vào một đêm trăng sáng như hai giang hồ hảo hán. Đánh thắng chú sẽ bỏ làng đi tìm con ngựa trắng về để làm sính lễ cưới cô Vi.

Cô Vi là người con gái bản bên mà chú đi trèo cột xong bị đánh bẫy. Chú nói cô ấy thích chú và sẽ chờ chú. Sính lễ phải ra gì và con ngựa trắng toát đấy là hợp nhất. Kể đến cô Vi bao giờ mắt chú Kiền cũng mơ màng. Tôi thích nhất nghe kể chuyện ấy. Đều đặn trăng sáng, chú lại lôi chuyện cô Vi ra kể. Kể xong cả đêm không ngủ cứ ngơ ngơ, ngẩn ngẩn rồi tối hôm sau phát điên, lại săn biệt kích. Tôi thú nhất đoạn chú như con mèo leo cột nhà lên gian có buồng cô Vi ngủ. Chú nhanh nhẹn như sóc, nhẹ nhàng như mèo không đánh thức bố mẹ cô. Vào tới trong nhà, chú đặt chân theo xà ngang nhẹ nhàng từng bước đi vào buồng có mùi thơm quen thuộc. Có đêm chú nằm bên cô đến sáng, cả đêm ngửi mùi tóc và mùi tỏa ra từ da cô. Một đêm đang mơ màng nằm bên cô, chú bật dậy vì nghe có tiếng bước chân dưới gầm sàn. Chưa kịp nhìn ra ngoài, chú đã giật thót vì thấy một lưỡi dao nhọn sắc lạnh lách theo khe ván đâm lên đúng chỗ mình vừa nằm. Đêm ấy, chú và cô Vi mỗi người nằm nghiêng trên một tấm ván mặt đối mặt nhìn nhau nín thở. Chú định vùng dậy, thì tay cô Vi mềm mại giữ lại. Cả hai nhè nhẹ thở nhìn nhau đến sáng. Bên ngoài trăng lướt nhẹ trên mây. Chuyện cứ lặp đi lặp lại nhưng qua miệng chú kể mấy lần cũng vẫn hay với hai thằng tôi. Có lần chú Kiền hỏi Tế nó sợ gì nhất. Tế nhìn tôi rồi không trả lời. Tôi biết nó chính là loại người sinh ra không phải để trả lời những câu hỏi như thế. Chú Kiền lại hỏi tôi sợ gì nhất. Tôi cúi xuống không đáp mặc dù trong tôi luôn sẵn câu trả lời.

            Đêm nào chú Kiền cũng dạy võ cho chúng tôi. Chú nói sau này chiến tranh xảy ra không biết võ chết như gà. Tôi không hứng thú lắm nên chỉ học một lúc rồi lảng ra ngồi xem chú với Tế luyện. Tế thích lắm, nó thấy những thế đánh của chú Kiền đẹp và hữu dụng, dù ai cũng biết chú Kiền có võ nhưng vẫn bị chú Lều chém dao quắm vào lưng suýt chết. Trăng sáng, dưới tán cây chú Kiền vung quyền, chú Kiền bật tôm. Tế vung quyền, Tế bật tôm. Lá tre rơi xoay tít, hai thầy trò nhảy múa như thể tránh những chiếc lá khô rơi rất nhanh ấy. Tôi chống cằm nhìn họ, nhưng là nhìn họ tránh những ánh trăng lấp lóa mỗi khi các thân tre ngả nghiêng lọt xuống. Những lúc ấy tôi chỉ nghĩ tới Phiêng. Tôi lặng lẽ đứng lên rời khỏi bãi tre già đi về hướng con suối, dọc đường tôi bứt một chiếc lá non. Đến gần ngôi nhà có mùi rượu, tôi đưa lá non lên môi thổi. Từ dươi mái cọ một bóng hình mềm mại nhanh nhẹn như mèo theo lối mòn tiến về nơi có tiếng kèn lá. Tôi và Tế mười sáu tuổi. Bây giờ chúng tôi đã biết mỗi tháng trăng đều đặn tròn một lần. Chú Kiền vẫn chưa quyết đấu. Ngựa trắng vẫn chưa xuất hiện.

            Nhà tôi ở chân đồi. Dưới gốc đa to nhất bản là nhà tôi. Người ta đồn rằng cả họ nhà tôi đều được đẻ ra trong hầm đất. Từ thời là những người đầu tiên kéo nhau đến bản này sinh sống, cả đàn cả đống chui vào hầm rồi lần lượt đẻ nhau ra. Tôi cũng đẻ trong hầm, mẹ bảo khi tôi đẻ, đạn pháo vẫn nổ như sấm trên trời. Hầm đất tối mịt, khói đèn dầu khiến mắt mẹ nhòa đi, mồ hôi và nước mắt khiến mẹ chằng biết tôi đã ra khỏi bụng bà hay chưa. Bố tôi chết vì rượu, từ chiến trường trở về ông chỉ làm một việc là uống rượu. Lần cuối, ông uống say rơi xuống ao cạn đầu làng, mặt úp xuống bùn ngạt thở mà chết. Nhà Tế ở gần mó nước. Nó sinh ra ở mó nước, một mình mẹ đẻ nó rồi rửa người nó bằng nước mát lạnh từ máng vàu chảy ra. Bố nó chết khi đi đào vàng ở mạn xuôi. Xác người ta khiêng về bẹp rúm. Mười tuổi nó đã biết đi đào dũi, bẫy gà rừng. Mười tuổi, tôi xới cơm cho bố mẹ còn bị chửi vì để vãi cơm ra ngoài.

            Hôm nay, chú Kiền gọi hai thằng đến nhà chú uống rượu nói có chuyện quan trọng. Tế đến trước giúp chú dọn cơm, thịt gà, cá nướng, canh cải xanh rì, còn rượu nhất định là của nhà Phiêng, lấy từ chum ủ lâu hơn những chum khác. Chú Kiền ban đầu chỉ giục ăn, giục uống rồi sau khi đã ngà ngà lại nói rất nhiều, lại bắt đầu kể đi kể lại chuyện cũ. Bây giờ chú kể chuyện cô Vi, tôi không thích nữa. Yêu đương gì mà chẳng phải đã bao năm còn chưa gặp nhau tôi tự nhủ. Tôi cho tay vào túi chạm chiếc lá non, lòng tôi hướng về bờ bên kia con suối. Tế trầm ngâm, bình lặng, chẳng nói gì từ đầu đến cuối chỉ rót rượu cho mọi người và uống.

Chú Kiền nói tao chết thì cho thằng Tế căn lều. Rồi quay sang tôi nói, mày thì giữ vuông ao nhé. Chú chết sao được, huống hồ chỉ là quyết đấu. Sinh tử đấy chúng mày ạ. Mặt chú căng ra vẻ nghiêm nghị. Từ khi ông già tao đánh ngã ông già nó từ lưng ngựa trắng, tao và thằng đó tự nhiên trở thành kẻ thù, gặp đâu đánh đó. Trước nó cũng quân tử, nhưng giờ chắc có người xúi nên kết bè phục kích tao mấy lần, nhất là từ dạo tao tán cô Vi ở bản nó. Vậy là không đấu tay đôi hả chú. Đèn dầu phập phù trong gió. Chú Kiền rót rượu đầy chén mắt trâu, mời hai thằng. Tao từng nghĩ dạy võ cho hai thằng để sau này giúp tao một tay đấy. Chú không nói bọn cháu cũng giúp ạ. Gió bên ngoài thổi xào xào mà chú Kiền chỉ cười không nói. Rồi chú lót rượu liên tục cho chúng tôi. Uống đi, trẻ như hai thằng sướng lắm. Chúng mày biết chú sợ gì nhất trên đời lúc này không. Chính là sợ đối thủ không còn xứng với mình. Noi xong chú uống cấp tập, hai thằng uống theo chẳng mấy chốc chúng tôi hoa mắt, nói ngọng rồi cùng lăn ra ngủ tại mâm.

*

Dậy đi. Từ sâu thẳm bóng tối, tôi nghe tiếng gọi của Tế. Căng mắt ra nhìn, tôi thấy mình vẫn nằm trong căn lều của chú Kiền. Mâm bát đã dọn sạch. Tế ngồi lay tôi dậy. Lúc này tôi mới nhớ cả hai bị chuốc say và ngủ. Chú Kiền đã đi từ bao giờ. Bên ngoài trăng ló khỏi mây, một màu trăng ma mị nhuốm ánh đỏ. Tôi cùng Tế chạy tới làng bên. Lúc chạy qua dòng suối, tôi cho tay vào túi quần con dao chuôi trạm đầu rồng ở trong túi, nép sau nó là chiếc lá đã nhàu và héo úa. Tôi vứt lá xuống suối, nếu là ban ngày có thể nhìn thấy nó xoay tròn trong dòng nước. Lúc chúng tôi qua nhà cô Vi, thấy quanh nhà đầy người. Đèn và đuốc sáng trưng. Tôi định chạy nhanh qua để đến bãi trống xem trận thách đấu thì Tế giữ tôi lại. Tiếng khóc từ ngôi nhà vọng ra khiến tôi lúc này cũng bủn rủn. Từ lối rẽ vào nhà cô Vi chật ních người, già trẻ lớn bé đều dựng dậy mà tới đây vậy. Dưới chân cầu thang những người đàn ông quây thành vòng tròn. Ở trong vòng tròn ấy là cô Vi đang sõa sượi khóc, hai tay ôm một thân hình gầy gò trong bộ quần áo bộ đội cũ mèm. Tế không nói gì, tay gạt mọi người đi vào bế chú Kiền lên. Tôi bủn rủn khóc nấc. Trăng tròn, sáng đến kì lạ.

Một tháng sau đám ma chú Kiền, chúng tôi đến thăm nhà cô Vi. Mắt cô nhòa lệ, cô héo hon khi nhìn thấy tôi và Tế. Ngồi trên sàn phơi thóc, chúng tôi nghe cô kể lại đêm chú chết. Chú Kiền đến tìm lúc cô vừa tắm xong, đầu mới gội ướt hương bồ kết. Cô và chú nhìn nhau dưới trăng rất lâu, được lúc thì chú chạy đi như bay, cô gọi đuổi theo chẳng kịp. Rồi như có lửa đốt trong người, nửa đêm cô nghe tiếng huyên náo, lúc sau thì im đi. Cô cũng ngồi ở sàn phơi đợi mãi chẳng thấy chú Kiền quay lại đang định vào ngủ thì nghe tiếng thở nặng cô chạy như bay xuống thang. Chú Kiền bê bết máu, bò lết đến gần chân cầu thang thì gục. Nước mắt cô Vi nhòa mặt, lúc chúng tôi ra về nhìn thấy chân tóc cô đã đổi sang màu trắng. Tối ấy sau khi chuốc say tôi và Tế, chú Kiền một mình đến chỗ hẹn. Kẻ kia và bốn tên đàn em đã ngồi uống rượu ở quán giữa làng đợi. Chú Kiền nói đông đủ nhỉ, xin một chén nào anh em. Một tên cầm chén rượu đến hất vào mặt chú rồi vung tiếp cú đấm. Chú Kiền phòng bị trước nên tránh được, gạt bay cái chén rồi lộn người ra giữa ngã ba thủ thế. Cả bọn cùng vây chú giữa ngã ba. Chú Kiền đánh võ loang loáng gạt đỡ không sao bọn kia đụng vào người được. Trăng sáng rỡ, thốt nhiên từ đằng xa, một bóng trắng xuất hiện khiến chú Kiền ngưng tay, nhìn mê mải. Tiếng võ ngựa vang lên. Cùng lúc một chớp trắng lóe lên, máu từ bụng chú Kiền túa ra. Kẻ thù của chú lẩy bẩy trước cái nhìn kinh bỉ của chú. Toán loạn chúng chạy.

Bây giờ tôi và Tế mười tám, chúng tôi biết mỗi tháng trăng đều đặn tròn một lần. Chú Kiền đã xanh mồ, cô Vi được gả cho một người mạn ngược. Tế biết mỗi tối, Phiêng đều ngồi bên nghe tôi thổi kèn lá. Ngày rằm tháng bảy, trời nắng chang chang nó ngồi bên vệ đường đợi ngựa trắng cả ngày. Tối đấy dưới ánh trăng, Tế gặp tôi nói muốn cùng quyết đấu một lần nữa. Tôi hỏi bây giờ à. Nó bảo ba năm nữa, trên nền nhà của chú Kiền. Chúng tôi tới căn lều sập xệ đứng lặng một lúc rồi tôi bật lửa, Tế châm đuốc ném thẳng vào mái cọ. Qua tết, tôi cùng Phiêng đứng ở nền nhà chú Kiền, cỏ đã lên xanh như màu áo lính tiễn Tế đi bộ đội. Tế nói, ở nhà nhớ tập võ. Tôi nói mặc áo xanh bộ đội thích nhỉ. Tế nói rằm tháng bảy nhớ đợi ngựa trắng về. Tôi nói hai năm sau quyết đấu ở đây. Nắng nhấp nháy trên mặt suối róc rách chảy. Tế mặc áo bộ đội lênh kênh đi thẳng không quay đầu lấy một lần ra khỏi bản.

 Nguồn Văn nghệ trẻ số 41/2019         

 


Có thể bạn quan tâm