April 19, 2024, 9:32 am

Hành trình của những thước phim

Như những thước phim tiếp nối và bất tận, hơn 50 năm qua, hình ảnh những người đi chiếu bóng lưu động luôn hiện diện trong đời sống văn hóa của nhân dân một cách gần gũi và thân tình. Họ không chỉ mang đến những thước phim để dệt nên ký ức dài hạn, mà họ còn mang đến những viên gạch niềm tin, xây đắp nên một nền tảng văn hóa tinh thần, đánh thức sức sống cho bao miền đất hứa.

 

Những ngày gian khó

Đội Chiếu bóng lưu động những ngày đầu 1977 (ảnh Tư liệu sưu tầm) 

Chú Trần Phú Thạo (Ba Thạo) - Đội trưởng đầu tiên của Đội Chiếu bóng An Giang, năm nay đã ngoài 80 tuổi, mắt mờ, tai yếu nhưng khi nghe chúng tôi đến thăm và muốn tìm hiểu về ngành chiếu bóng tỉnh nhà, mắt chú ánh lên, ký ức năm nào như hiện về ngay bên cạnh. Chú kể cho chúng tôi nghe nhiều câu chuyện, vừa hào hùng vừa cảm phục, về sự vất vả, gian nguy của những người đi chiếu bóng. Họ được ví như những người thợ xây cần mẫn và lặng lẽ, không chỉ mang ánh sáng văn hóa đến với nhân dân, mà còn mang ngọn lửa tình yêu quê hương đất nước, niềm tin vào Đảng và cuộc cánh mạng của dân tộc đến với quần chúng khắp nơi, từ những vùng sâu vùng xa đến cả những vùng “da beo” và có khi ngay trong vùng địch đang kiểm soát.

Chú Ba Thạo nhớ lại, từ những năm 1962-1963, để đáp ứng cho công tác tuyên truyền và phục vụ nhu cầu hưởng thụ, nâng cao văn hóa tinh thần cho đồng bào, chiến sĩ trong vùng kháng chiến, Ban Tuyên huấn Tỉnh ủy cho thành lập Đội Chiếu bóng lưu động ngay tại căn cứ B1 (nay thuộc huyện An Phú, An Giang). Lúc bấy giờ B1 là vùng biên giới xa xôi, rừng rậm hoang vu, nhiều đế sậy, tre nứa; chạy dài từ sông Tiền đến sông Hậu, nằm vắt qua 2 bờ biên giới, với những kinh rạch len lỏi, kết nối qua những xóm làng người Việt và phum sóc của người Campuchia, từ lâu đã là “phên giậu” vững chắc của cách mạng.

Ngày ấy, không chỉ ở căn cứ B1, mà cả các căn cứ B2, B3 và B4 đóng ở ven biên giới, vùng núi… đều là những nơi hẻo lánh, xa xôi, cách trở; đời sống tinh thần của người dân còn nhiều thiếu thốn, nên bên cạnh Nhà in, Đoàn Văn công thì Đội Chiếu bóng lưu động là một trong những “ngọn đèn” thắp lên những giá trị văn hóa tinh thần cho bà con vùng biên ải. Trên địa bàn tỉnh An Giang lúc này có 2 Đội chiếu bóng, một Đội thuộc Ban Chính trị Tỉnh đội, do đồng chí Bình “đém” làm Đội trưởng và một số anh em kỹ thuật, thường đến chiếu cho các chiến sĩ ở mặt trận xem. Và một đội nữa, là đơn vị của chú Ba Thạo, thuộc Ban Tuyên huấn Tỉnh ủy Long Châu Tiền, gồm 6 đồng chí: Đồng chí Võ Quang Đạt là Đội trưởng, các đồng chí Đỗ Thanh Đoàn, Lê Minh Phúc, Trình Thống Nhất phụ trách kỹ thuật máy chiếu, đồng chí Nguyễn Thanh Hồng phụ trách máy nổ và đồng chí lão thành Lương Sĩ Cẩn phụ trách công tác hậu cần.

Thuở sơ khai, Đội được trang bị một máy chiếu phim 16 ly của Tiệp Khắc, 1 máy chiếu phim 35 ly của Liên Xô do Trung ương cục miền Nam cấp và một máy nổ hiệu Koler 7. Ít lâu sau được trang bị thêm máy chiếu phim 16 ly của Mỹ - đây là chiến lợi phẩm quân ta thu được sau trận đánh. Bằng các máy chiếu thô sơ ngày ấy, với phương châm “tiếng loa hòa tiếng súng”; máy chiếu được xem là súng, băng phim là đạn và các anh em chiếu bóng là những chiến sĩ của mặt trận văn hóa, thông tin cổ động, Đội đã lặn lội mang những thước phim tuyên truyền đến khắp các xóm làng biên giới, lúc thì ở vùng giải phóng, lúc lại ở vùng “da beo”, khi thì vào trong vùng địch tạm chiếm, và cũng không ít lần sang các phum sóc ở đất bạn chiếu phim tuyên truyền cho bà con Campuchia xem.

Lần theo lời kể của chú Ba Thạo, chúng tôi quyết tâm tìm đến những thành viên trong Đội Chiếu bóng năm nào. Sau hơn 50 năm, người còn, người mất… Nhưng khi gặp các chú, ai nấy cũng hồ hởi như được sống lại những năm gian khó mà hào hùng, dưới ánh đèn pha máy chiếu, họ đã sống và đặt từng viên gạch cho công tác tuyên truyền, lan tỏa văn hóa của cách mạng. Chú Đỗ Thanh Đoàn (nguyên Giám đốc Công ty Điện ảnh An Giang, một trong những cán bộ của Đội Chiếu bóng lưu động ngày ấy), kể với chúng tôi rằng, những năm bom đạn ác liệt, để có được những buổi chiếu phim cho bà con thưởng thức, các anh em trong Đội phải tìm cách trao đổi phim với các đơn vị bạn, thậm chí không ít lần lặn lội đạp xe, len lỏi đường rừng ròng rã hàng chục ngày trời lên căn cứ R ở Tây Ninh để chở những bành phim tài liệu, phim truyện trong nước và cả các nước Liên Xô, Tiệp Khắc, Cộng hòa dân chủ Đức… về B1, làm phong phú thêm kho phim của Đội.

Có phim trong tay, còn phải lo địa điểm chiếu cho người dân coi. Lúc bấy giờ các xóm làng ở biên giới thường xa xôi, đường đi khó khăn, địch đóng quân nhiều nơi, rình rập rất sát sao. Để đem những thước phim tuyên truyền về cuộc chiến tranh chính nghĩa của nhân dân ta, về lòng yêu nước và cỗ vũ tinh thần chiến đấu, Đội phải linh hoạt, tìm cách chuyên chở máy móc sao cho an toàn và không quên mang theo cả súng đạn sẵn sàng chiến đấu; băng rừng, len lỏi qua kinh rạch mấy chục cây số để đến với dân; nhiều lúc vào sâu trong vùng địch chiếm đóng (có khi chỉ cách đồn giặc chừng một cây số đường chim bay). Những lần như vậy, các anh em trong Đội phải ngụy trang máy móc, đến nơi đào sẵn hầm kín đáo để đặt máy nổ tránh tiếng ồn. Không chỉ vậy, xung quanh Đội còn phải đào hào để phòng khi địch pháo kích thì người dân có nơi mà ẩn nấp. Chiếu phim thường lúc về đêm, các anh trong Đội phải dùng tăng, chiếu che máy chiếu, không để sáng rực ra ngoài làm địch phát hiện. Có lần buổi chiếu phim bị địch phát hiện, pháo kích, cả Đội và người dân phải xô máy xuống hào tránh pháo. Tan cuộc pháo kích, có thanh niên hừng hực ý chí, xin các anh em cho theo về căn cứ để đi kháng chiến.

Hồi ấy, Đội đến đâu chiếu phim là bà con đến xem đông như hội, người ta mang theo cả chiếu mền cho trẻ con nằm ngủ. Phim chiếu hết 1 bộ, bà con lại muốn xem thêm. Hễ còn người xem là Đội còn chiếu, cho đến khi nào hết các bành phim mang theo mới thôi, có khi chiếu đến cả 1-2 giờ sáng. Những thước phim quay cảnh Bác Hồ đi thăm dân công, thăm nông dân, cưỡi ngựa đi công tác, dạy võ, lội suối, băng rừng, chơi bóng chuyền… do nhà quay phim Nguyễn Thế Đoàn – một người con An Giang vinh dự quay những thước phim đầu tiên về Bác tại chiến khu Việt Bắc, được chiếu cho nhân dân xem, đầy xúc động. Những tựa phim truyện và phim tài liệu như: Chung một dòng sông, Nổi gió, Chiến thắng đường 9 Nam Lào, Vĩ tuyến 17 ngày và đêm, Em bé Hà Nội, Người chiến sĩ trẻ, Đường về quê mẹ… được đông đảo người dân yêu thích. Có phim bà con vừa xem vừa cảm động rưng rưng, đập tay xuống đất căm thù giặc, quyết theo cách mạng đánh đuổi ngoại xâm.

Nhưng đâu chỉ có chiếu phim cho quần chúng nhân dân xem, Đội còn chiếu phim cho cả những binh lính giặc bị bắt làm tù binh. Có người đã khóc khi xem phim Không nơi ẩn nấp, Đường về quê mẹ... Và chính họ, khi được thả về, đã vận động người thân, binh sĩ trong hàng ngũ địch trở về với chính nghĩa, ủng hộ cuộc kháng chiến của cách mạng đến ngày thắng lợi.

Ở đất bạn, khi xem cảnh bộ đội ta anh dũng chiến đấu, hy sinh, giúp dân dựng nhà cày cấy… bà con Campuchia vui mừng phấn khởi, không ít nơi nhờ những thước phim mà bà con đã mở lòng giúp đỡ cách mạng. Có lúc gian nguy bị giặc phục kích, bà con Campuchia đã chở che, giúp đỡ cách mạng và dặn rằng, nhờ có bộ đội Việt Nam bà con mình mới biết tới phim, mới thấy cảnh Quốc Vương được nhân dân Việt Nam đón chào trọng thị.

Những năm cuối của thập niên 60, đầu thập niên 70 của thế kỷ trước, chiến tranh nổ ra ác liệt, nhu cầu quân số trực tiếp chiến đấu ngày một tăng. Những trận đánh lớn khi cần bổ sung lực lượng, các anh em kỹ thuật viên trong Đội Chiếu bóng đều xung phong cầm súng ra trận, đối mặt với quân thù. Và không ít người trong số họ đã anh dũng hy sinh, khi vẫn mang bao ấp ủ và lời hứa với bà con xóm thôn phum sóc, sẽ đem đến chiếu một bộ phim về ngày thắng lợi rực rỡ của nhân dân ta, gần thôi! Đồng đội ở lại, tiếp tục mang những thước phim đến với dân, không khỏi nghẹn ngào khi có người hỏi, chú Năm sao không đến như đã hẹn? Và họ không nén nỗi xúc động, nghẹn ngào thương nhớ, dâng trào thêm niềm quyết tâm đánh đuổi ngoại xâm, xua đi đêm tối của chiến tranh, mất mát!

Một thời “hoàng kim”

Ngày 30/4/1975, miền Nam hoàn toàn giải phóng, non sông hoàn toàn độc lập và thống nhất! Nhân dân ta bước vào một kỷ nguyên mới, kiến thiết, xây dựng đất nước. Thời kỳ này, Đội Chiếu bóng từ kháng chiến ra được phát triển và thành lập thêm 11 Đội Chiếu bóng mang tên An Giang 1, An Giang 2… An Giang 11. Mỗi Đội phụ trách một huyện, thị. Đồng thời, Đội Chiếu bóng của tỉnh cũng tiếp nhận một số rạp hát, rạp chiếu phim: Thanh Liêm, Tân Đô, Minh Hiển… Lúc bấy giờ, các rạp chiếu bóng vừa chiếu các phim tài liệu tuyên truyền cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, vừa duy trì chiếu một số phim truyện đáp ứng nhu cầu phát triển tinh thần của nhân dân.

Ông Nguyễn Sĩ Hùng (Phó trưởng Phòng Tuyên truyền cổ động và Điện ảnh – Trung tâm Văn hóa Nghệ thuật tỉnh An Giang), người có thời gian dài gắn bó với công tác chiếu bóng và điện ảnh của địa phương nhớ lại, lúc bấy giờ rạp Thanh Liêm còn sử dụng máy chiếu phim sử dụng than cây do Liên Xô sản xuất. Phòng máy lúc nào cũng phải mở toang cửa và quạt công suất mạnh để đảm bảo nhiệt độ cho máy hoạt động ổn định. Những năm đầu sau giải phóng, ở thị xã mới có điều kiện đi xem phim chiếu rạp, còn ở các huyện, đặc biệt là vùng sâu vùng xa và vùng đồng bào dân tộc, phum sóc ven biên giới thì hầu như người dân chỉ trông vào những dịp Đội Chiếu bóng về.

Lúc bấy giờ các Đội Chiếu bóng hầu như hoạt động liên tục chứ không chỉ ở mỗi dịp lễ tết. Những nơi thuận lợi thì đi xe, nhưng hầu như phải đi ghe xuồng, men theo kinh rạch. Mỗi Đội một chiếc tắc ráng chở theo máy, thiết bị và gạo mắm muối đủ ăn trong một tuần. Dọc theo kinh, đi vào các vùng sâu, có những nơi xa kinh rạch, phải khuân vác máy móc đi cả cây số đường bộ là chuyện thường. Đội đến đâu bà con cũng vui mừng chào đón. Có khi xuồng chở máy chiếu sắp đến nơi đã thấy bà con kéo ra đón mừng, làm anh em trong Đội như xua đi bao cực nhọc và mệt mỏi. Không ít lần mưa gió bất ngờ, anh em nhường phông bạt che cho máy móc, mình mẩy ướt nhem mà sau mưa, dân còn ở chờ là còn mở máy lên chiếu tiếp bộ phim đang dang dở… Mỗi đợt chiếu phim kéo dài khoảng 2 tiếng đồng hồ, bắt đầu từ 19 giờ, mà mới 17- 18 giờ người dân đã đến ngồi chờ đông như hội, có khi 5-6 trăm người đến xem. Lúc bấy giờ Đội chiếu phim truyện, xen lẫn các phim tài liệu tuyên truyền. Tùy vào tình hình mỗi địa phương mà Đội sẽ tìm và chọn phim khác nhau, đến mùa mưa thì chiếu thông tin diệt loăng quăng, đến mùa sắp gieo sạ thì chiếu thông tin nhà nông cần biết… Những chương trình chiếu phim bấy giờ không chỉ là món ăn tinh thần mà còn đem đến những kiến thức hết sức bổ ích cho bà con nhân dân, nên ai ai cũng mê cũng thích…

Một thời hoàng kim mở ra từ những năm đầu sau giải phóng, khi thị hiếu và nhu cầu thưởng thức phim ảnh của người dân phát triển, Đội Chiếu bóng lưu động được phát triển thành Trung tâm Chiếu bóng rồi thành Trung tâm phát hành phim và chiếu bóng, Công ty Điện ảnh, Quốc doanh phát hành phim với những hoạt động phát hành băng đĩa, chiếu phim tại rạp và cả chiếu phim lưu động. Trong đó có nhiều hoạt động có doanh thu cao, một thời phát triển gần như mạnh nhất nhì trong ngành Văn hóa thông tin địa phương. Năm 2019, Đội Chiếu bóng trở thành một bộ phận của Phòng Tuyên truyền cổ động và Điện ảnh thuộc Trung tâm Văn hóa Nghệ thuật tỉnh An Giang.

Văn hóa chiếu bóng trong thời đại 4.0

Những năm gần đây, sự bùng nổ của công nghệ thông tin cho ra đời nhiều thiết bị nghe nhìn đa phương tiện. Mạng xã hội đã có mặt khắp mọi nơi, trình ra trên màn ảnh nhỏ những thông tin, phim ảnh từ cổ chí kim hết sức nhanh nhạy và đa dạng. Điều đó phần nào làm cho không khí sôi nổi của những buổi chiếu phim lưu động dần bị quên lãng… Đời sống được phát triển, nhu cầu thưởng thức phim ảnh của người dân cũng ngày một cao và đa dạng hơn. Những người làm công tác chiếu bóng của tỉnh luôn trăn trở và tìm giải pháp làm sao để nâng chất lượng nội dung phim, cải thiện hình thức hoạt động, trang thiết bị ngày một theo kịp sự tiến bộ của công nghệ thì mới thu hút được đông đảo nhân dân đến xem. Mà thu hút được người dân đến xem thì việc truyền tải văn hóa song song với nhiệm vụ chính trị tuyên truyền vận động nhân dân mới đạt được hiệu quả. Từ sự trăn trở đó, các anh em trong Đội luôn tranh thủ sự quan tâm, ủng hộ của các cơ quan ban ngành hữu quan trong việc đầu tư kinh phí mua sắm trang thiết bị phục vụ cho hoạt động chiếu phim lưu động. Trước mỗi buổi chiếu phim, các cán bộ chiếu phim đều tìm hiểu kỹ thị hiếu người dân trên địa bàn, nắm bắt nhu cầu thưởng thức nghệ thuật điện ảnh của đối tượng khán giả, lựa chọn phim cho phù hợp. Ngoài nguồn phim do Cục Điện ảnh cấp về hàng năm, Đội luôn đổi mới và tìm nguồn phim từ nhiều nơi, kết hợp hài hòa giữa yếu tố chính trị và thẩm mỹ, giải trí để thu hút được đông khán giả… Các thước phim về với bà con ngày một đa dạng và phong phú từ hình thức đến nội dung. Không chỉ là phim ảnh giải trí mà còn là những kiến thức về giáo dục, khoa học kỹ thuật, chăm sóc sức khỏe cộng đồng, sức khỏe sinh sản, giữ vệ sinh môi trường, phòng, chống dịch bệnh, phòng chống các tệ nạn xã hội… đã góp phần giáo dục truyền thống cách mạng và đẩy mạnh việc học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, xây dựng nông thôn mới…

Những ngày tỉnh nhà phải thực hiện giãn cách xã hội để phòng, chống dịch COVID-19, chương trình chiếu phim lưu động bị gián đoạn. Tuy nhiên, “trong cái khó ló cái khôn”, các cán bộ chiếu phim đã nhanh nhạy ứng dụng công nghệ thông tin, tận dụng sự phổ biến của các trang mạng xã hội để đăng tải nhiều phim, tư liệu tuyên truyền về phòng, chống dịch một cách nhanh nhạy và hiệu quả, lan tỏa đến đông đảo quần chúng nhân dân. Trong gian khó từ thời chiến tranh ác liệt, đến những năm đổi mới còn nhiều thiếu thốn và trước tình hình mới khi dịch bệnh xảy ra, hình ảnh của những người đi chiếu bóng vẫn luôn lặng lẽ mà những thước phim của họ luôn hiện diện trước nhân dân như người lặng thầm đi xây dựng niềm tin của Đảng, đưa ánh sáng văn hóa đến với quần chúng nhân dân ở mọi thời đại, mọi hoàn cảnh…

Trong những ngày thực hiện bài viết này, tôi lặn lội theo chân anh Sĩ Hùng đi chiếu phim ở những xã vùng sâu ven biên giới, gặp gỡ chú Ba Thạo, chú Đoàn… nghe các chú kể chuyện. Sau mỗi mẩu chuyện, như có một thước phim tôi vừa được xem bằng sự hình dung: những người làm công tác chiếu bóng ở An Giang trong hơn 50 năm qua, không chỉ mang đến những thước phim để dệt nên ký ức cho bao người, mà họ còn mang đến những viên gạch niềm tin, xây đắp nên một nền tảng văn hóa tinh thần cho bao vùng đất xa xôi bừng thức dậy…

Nguồn Văn nghệ số 44/2022


Có thể bạn quan tâm