March 29, 2024, 4:13 am

Gương mặt mấy nhà văn – nghệ

 (Tiếp theo)

Nhà thơ Diệp Minh Tuyền… ca

Diệp Minh Tuyền (1941-1997)

 Cố nhà thơ Diệp Minh Tuyền là một người vui tính, năng động và có vẻ nổi tiếng trong lĩnh vực âm nhạc hơn cả trong thơ ca. Mặc dù anh là một nhà thơ trưởng thành từ cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. 

Tôi quen Diệp Minh Tuyền từ những ngày trong chiến khu R, nhất là khi anh biên tập một bài thơ của tôi đưa vào tạp chí Văn nghệ giải phóng. Cuốn tạp chí có bài thơ chưa kịp phát hành thì chính bài thơ tôi đã làm khổ số tạp chí ấy: nó bị một vị cấp “côi” phát hiện là “có vấn đề” và bị “bóc” ngay trong xưởng in. Báo hại nhà thơ Diệp Minh Tuyền, người biên tập chính của phần thơ số tạp chí ấy, phải bị năm lần bảy lượt kiểm điểm. Nhưng cũng vì cái “nạn” ấy mà chúng tôi trở nên quen biết sâu với nhau. Tết năm 1974, Diệp Minh Tuyền cùng vài người bạn bên văn nghệ đã đạp xe nửa ngày đường sang “cứ” binh vận của tôi và ăn Tết với tôi. Đó là cái Tết thật vui! Từ hồi ấy, Diệp Minh Tuyền đã có thơ in nhiều ở các báo miền Bắc và có thơ phổ nhạc. Tuyền cũng có cả ca khúc do chính anh sáng tác và đã phát nhiều lần trên sóng Đài phát thanh Giải phóng và Đài tiếng nói Việt Nam. Những nhà thơ kiêm nhạc sĩ như thế ở nước ta không có nhiều, và điều lạ là tuy “đăng ký thương hiệu” là nhà thơ nhưng những ca khúc của họ lại rất phổ biến.

Tôi còn nhớ, hồi đại hội nhà văn 4 năm 1989, Diệp Minh Tuyền thuộc phái “cấp tiến” và phát biểu rất hăng hái trên diễn đàn đại hội. Sau đó, một số nhà thơ chúng tôi, trong đó có Diệp Minh Tuyền, được mời vào đọc thơ ở khoa Văn đại học Tổng hợp Hà Nội. Khi tới lượt Diệp Minh Tuyền đọc thơ, anh xin phép được… ca. Anh đã hát rất sôi nổi bài “Đời mình là một khúc quân hành/ Đời mình là bài ca chiến đấu…” do chính anh sáng tác. Có lẽ đó là một trong những lần đầu tiên bài hát này được chính tác giả của nó hát phục vụ người nghe là thanh niên sinh viên. Bài hát hào hùng và xúc động ấy đã được cử tọa vỗ tay hoan hô nhiệt liệt. Và sau đó, nó đã trở thành bài hát gần như chính thức trong thanh niên và quân đội. Cho tới bây giờ, mỗi khi vùng biên giới biển đảo Tổ quốc ta đứng trước những nguy cơ bị xâm lấn, cứ nghe bài hát “Đời mình là một khúc quân hành” của Diệp Minh Tuyền, thế hệ những cựu binh như chúng tôi lại rạo rực rưng rưng lên như những ngày xưa ra trận.

Diệp Minh Tuyền đã đi vào chiến trường miền Nam khá sớm, ngay sau khi anh tốt nghiệp khoa ngữ văn đại học Tổng hợp và được về công tác tại Viện văn học. Là con trai một nhà giáo, một cán bộ cách mạng lão thành, ông Diệp Tư, lại có thành tích học tập tốt, nếu bình thường thì Diệp Minh Tuyền đã là nhà nghiên cứu văn học, rồi sẽ là một giáo sư tiến sĩ gì đó ở Viện văn học… Nhưng anh đã dứt khoát xung phong đi chiến trường, và trở thành một nhà thơ - nhạc sĩ, một “người hát rong” của cuộc chiến tranh giải phóng. Đó là cách lựa chọn phổ biến của thế hệ thanh niên ngày đó, một cách lựa chọn có thể làm ngỡ ngàng nhiều người đang sống bây giờ. Nhưng khi Tổ quốc lâm nguy, thì đó là cách lựa chọn bình thường và hợp lẽ nhất: cách lựa chọn của những người sống vì lý tưởng yêu nước. Chính vì thế mà bài hát “Đời mình là một khúc quân hành” của Diệp Minh Tuyền đã trở thành một “ca khúc vượt thời gian” mà mỗi thế hệ, dù không cầm súng, vẫn có thể say sưa hát. Bởi đó là bài ca của một người yêu nước mình, của những người yêu nước mình.

 

Tô Hoài… Nhớ

Tô Hoài (1920-2014)

Về nhà văn Tô Hoài, người ta đã viết bao nhiêu bài bao nhiêu trang, và sẽ còn viết nữa, vì ông là một trong những “cây đại thụ” của văn xuôi Việt Nam. Ý kiến về Tô Hoài cũng rất khác nhau, điều ấy chứng tỏ ông là một “hiện tượng đa chiều” không dễ để hiểu một chiều. Riêng tôi, không thuộc hàng “thân” hay “đệ tử” của Tô Hoài, nhưng qua một số lần tiếp xúc, nhất là qua những bức thư tình cờ hoặc không tình cờ mà Tô Hoài gửi cho tôi, cảm nhận của tôi về ông lại khá nhất quán. Trước hết, Tô Hoài là nhà văn không chịu “để rơi” bất cứ chuyện gì dù tình cờ qua tay ông. Ông nhớ gần như hết mọi điều mà ông đã trải trong đời. Đó là nhà văn có trí nhớ - văn học vào loại phi thường. Trí nhớ văn học có khác với trí nhớ bình thường, vì nó đã qua sự gạn lọc nhằm phục vụ cho một ý đồ văn học nào đó. Nhưng với Tô Hoài, dường như trí nhớ bình thường với trí nhớ văn học ở ông nhập làm một. Trong một bức thư gửi cho tôi đã khá lâu, ông nhắc về chuyện một cậu bé (gọi “cậu bé” chứ nay anh này khi ấy đã hơn… 50 tuổi rồi) đang sống ở thành phố tôi ở. Cậu bé này trước ở căn nhà đối diện với Hội Nhà văn Việt Nam (đường Nguyễn Du). Cậu bé hơi bị thần kinh, nhưng tính rất lành, và thường ngày hay lân la sang Hội Nhà văn chơi với các bác Tô Hoài, Nguyễn Đình Thi… Cậu khá thân với Tô Hoài. Sau này khi đã về quê ở miền Nam, thình thoảng cậu vẫn trần mình viết thư thăm bác Tô Hoài (cậu bé viết rất khó khăn). Có lẽ vì chi tiết đó mà Tô Hoài nhớ cậu bé. Ông kể rạch ròi mọi chuyện cũ quanh cậu bé và Hội Nhà văn, rồi nhờ tôi tới thăm xem cậu bé lúc ấy sống thế nào? Ai nói Tô Hoài tính lạnh nhạt và vô tình, riêng tôi thì không. Chỉ với một cử chỉ đó thôi, Tô Hoài trong tôi đã rất đáng trọng. Khi gặp và trò chuyện  với “cậu bé” (thực ra chỉ tuổi em tôi) tôi mới nghe cậu kể rất nhiều chuyện về “bác Tô Hoài”, dĩ nhiên toàn chuyện tốt. Rồi một lần nữa, cách đây khá lâu, khi còn tại thế, Tô Hoài lại viết thư và gửi bài cho tôi đăng ở một tạp chí văn nghệ địa phương. Tô Hoài kể chuyện về anh Platon Thành, một nhân vật người Nga “cực tiểu thuyết”, người đã ban đầu là tình cờ, và về sau là có ý thức, tham gia vào cuộc kháng chiến của quân dân Nam bộ chống thực dân Pháp. Bút ký của Tô Hoài viết rất thật, rất cảm động và rất hay về con người kỳ lạ này, về số phận còn kỳ lạ hơn của anh, và cuối cùng, về cái kết không mấy kỳ lạ của những con người nhỏ bé bị đời quên lãng. Nhưng Tô Hoài nhớ. Và tôi cảm phục ông chính vì cái sự nhớ này. Khối người chỉ nhớ những người nổi tiếng, những người giầu sang, những người quyền thế. Mấy ai nhớ những người bị đời bỏ quên trong một xó tối nào đó. Nhưng nghĩa vụ của một nhà văn chân chính là phải nhớ, nhớ và viết về những số phận ấy, con người ấy, để sự hiện diện của họ trong cuộc đời không bị mai một bất công. Tô Hoài đã làm được điều đó. Bút ký Anh Platon Thành của ông, theo tôi, là một tác phẩm hay. Và đó là niềm an ủi cho những con người bình thường nhỏ bé và dễ bị lãng quên.

“Không một ai tẻ nhạt ở trên đời” (Evtuchenko). Nhưng văn chương thì cũng dễ… tẻ nhạt lắm, nếu nhà văn không có tài. Tô Hoài là nhà văn cực tài. Và, ông là người biết nhớ. Nhớ rành rẽ và thấu đáo. Tôi yêu Tô Hoài, dù trong đời chỉ gặp ông vài lần, rất thoáng qua.

 

Nhà văn Trang Thế Hy… câu

Trang Thế Hy (1924-2015)

Tôi từng nghe rất nhiều giai thoại về nhà văn quê Bến Tre Trang Thế Hy trước khi được gặp ông. Khoảng thời gian giữa nghe và gặp dài tới… 35 năm. Nửa đời người còn gì! Trong các câu chuyện về Trang Thế Hy mà tôi nghe các bạn đồng nghiệp với ông kể lại, thì thú vị nhất là chuyện Trang Thế Hy… câu. Là dân đồng nước Nam bộ, ông rành sáu câu cái vụ giăng câu bắt cá là chuyện thường ngày ở vùng đồng bưng. Nhưng, câu như Trang Thế Hy thì ít người có. Thời chống Mỹ ở rừng, nhưng Trang Thế Hy thường xuyên xung phong đi công tác chiến trường, về bám đồng bằng. Ông đã từng mấy lần đi qua Đồng Tháp Mười. Và trong những chuyến đi dài ngày vừa gian khổ vừa nguy hiểm đó, bao giờ nhà văn của chúng ta cũng mang sẵn trong bòng của mình… vài trăm lưỡi câu, với một cuộn dây nhợ câu. Cần câu thì khỏi lo, tới đâu kiếm tới đó. Cứ mỗi khi tới trạm, nhất là những trạm giao liên giữa đồng nước mênh mông, trong khi mọi người tranh thủ giăng võng nằm nghỉ thì Trang Thế Hy lọ mọ giở “đồ nghề” và… câu. Ông câu cắm đã giỏi, câu cần càng giỏi hơn. Chỉ cần khoảng 1 tiếng đồng hồ “tác nghiệp”, Trang Thế Hy đã câu đủ cơ số cá cho đội công tác ăn cả ngày. Tôi cũng từng có may mắn đi xuyên qua Đồng Tháp Mười vào năm 1972, nên chỉ cần nghe kể là đủ hình dung “ông già Ba Tri” này câu giỏi cỡ nào rồi! Vậy mà khi thực gặp ông, hình như lần đầu là vào năm 2005 thì phải, thì câu đầu tiên mà Trang Thế Hy đề nghị tôi và nhà thơ Chim Trắng là mấy anh em đi… câu(?). Ông già đã hơn 80 xuân còn câu kéo được sao? Tôi chưa kịp hỏi, thì mấy anh em đã lên đường vào thị xã Bến Tre. Ở đó, tại một nhà hàng khá xịn, tôi được chứng kiến Trang Thế Hy câu… cua. Ông kêu ngay mỗi người hai con cua vừa mới thay da, gọi là “cua hai da”, loại cua ngon nhất của nhà hàng. Chim Trắng có vẻ… choáng, vì anh biết, tiền để “câu” loại cua này không hề ít. Sau khi thưởng thức món cua hai da, chúng tôi còn “câu” thêm vài ba món nữa, như cá chẽm chưng hay cá ngát nấu canh chua, toàn thứ “dữ” cả. Lúc đã “ngấm” tôi mới thụt thò hỏi thử Trang Thế Hy, rằng hồi xưa cụ có câu được những… món này không? Trang Thế Hy cười móm mém rất… hóm: bây giờ già rồi, gặp các ông từ thành phố xuống, tôi mới “mạnh dạn” kêu những món này, chứ bình sinh làm sao tôi “câu” nổi! Chim Trắng cười… méo miệng: Cứ mỗi ngày ông “câu” bấy nhiêu món thì chẳng mấy ngày tụi tôi phải… đi bộ về thành phố mất! Lúc này tôi mới thấy Trang Thế Hy cười… hết cỡ. Tụi tôi cũng cười… hết cỡ! Câu kiểu này thì ai câu chả được, cụ ơi!

Nguồn Văn nghệ số 13/2020


Có thể bạn quan tâm