April 18, 2024, 2:18 pm

Gương mặt mấy nhà văn – nghệ

Mượn… tiền nhà thơ Tạ Hữu Yên

Nhà thơ Tạ Hữu Yên

(1927-2013)

Theo một thống kê không chính thức, thì nhà thơ Tạ Hữu Yên là người có thơ được phổ nhạc nhiều nhất Việt Nam - khoảng hơn 200 bài. Đó là một con số thuộc hàng “khủng”, khi số nhạc sĩ phổ thơ Tạ Hữu Yên thì nhiều, nhưng người làm thơ thì chỉ… một.

Nhà thơ Tạ Hữu Yên có thể đã làm thơ ngay từ kháng chiến chống Pháp, vì ông là người tham gia hai mùa kháng chiến, và đều làm một việc: binh vận. Năm 1969, tôi nhập ngũ, được “bổ” về buổi phát thanh binh vận của Đài tiếng nói Việt Nam - trực thuộc Tổng cục Chính trị. Và tôi được vinh dự làm cùng phòng với nhà thơ Tạ Hữu Yên. Lúc đó, ông đã có thơ đăng báo khá nhiều, còn tôi mới chỉ có vài ba bài thơ nhỏ được đăng báo, nên tôi luôn nhìn và nghe ông với sự kính trọng đặc biệt. Ông đã cho tôi một số lời khuyên về công việc làm thơ, có điều tôi cảm thấy hơi khó theo, có lẽ vì cách nhau cả thế hệ, thơ ông đã định hình, còn thơ tôi thì còn… chưa thấy đâu. Ông là người có thâm niên về công tác binh vận, và ông làm công việc này cho tới khi đất nước giải phóng mới chuyển qua làm biên tập nhà xuất bản quân đội. Mất hơn 5 năm tôi xa ông do tôi đi chiến trường, sau giải phóng, vào năm 1976, cơ duyên tôi lại được gặp ông. Bấy giờ, ông đã có hàng mấy chục bài thơ được phổ nhạc, trong đó có những bài rất nổi tiếng như Đôi dép Bác Hồ. Còn tôi thì khi gặp lại ông cuối năm 1976, tôi đã viết xong một trường ca, gửi xuất bản ở nhà xuất bản quân đội. May mắn thế nào, người biên tập cho tác phẩm của tôi lại là nhà thơ Tạ Hữu Yên. Anh em gặp nhau tay bắt mặt mừng. Và, điều đầu tiên tôi đề nghị ông là cho tôi được… ứng tiền nhuận bút. Ông vui vẻ viết giấy đề nghị để tôi được nhận một số tiền khá lớn so với hồi ấy, dù tác phẩm của tôi chưa xong khâu biên tập. Đúng là anh em cùng cơ quan cũ có khác. Tôi biết ơn ông vì điều đó. Năm sau, khi trường ca đã được xuất bản, tôi lại có dịp gặp Tạ Hữu Yên khi ông vào Đà Nẵng công tác và ăn ở tại cơ quan chúng tôi. Hồi đó mấy anh em văn nghệ đều nghèo lắm. Một buổi sáng, kẹt tiền quá mà không biết mượn đâu ra, tôi chợt nhớ “cụ” Tạ Hữu Yên đang ở khu chung cư với mình. Tôi bèn ra sân thượng đứng… hát. Tôi hát một bài nhạc của Nguyễn Thành phổ thơ Tạ Hữu Yên, bài hát về những “ký ức xanh” Hà Nội năm 1946: “Đêm, cái đêm rút qua gầm cầu/ Anh, anh đã hẹn ngày mai trở lại/ Sóng sông Hồng vỗ bờ hát mãi…”. Bài hát này bản thân nó đã rất xúc động, tôi lại hát trong tâm trạng… muốn vay tiền, nên càng… day dứt hơn. Tôi đang say sưa hát thì nhà thơ Tạ Hữu Yên đã đứng sau lưng tôi từ lúc nào. Tôi quay lại nhìn ông, thấy “ông già” cũng có vẻ rất xúc động. Tôi bèn tranh thủ ngỏ lời: “Anh Yên ơi, anh cho em… mượn mấy đồng, em đang cần tiền quá!” Nhà thơ Tạ Hữu Yên xởi lởi: “Cậu cần bao nhiêu? Mình đi công tác nên không có nhiều tiền, nhưng cậu cứ cầm đi!” Nói rồi, Tạ Hữu Yên rút túi lấy tiền cho tôi mượn, trong trạng thái cả hai anh em còn… lâng lâng vì bài hát của Nguyễn Thành. Dĩ nhiên, sau đó có dịp tôi đã trả lại số tiền mượn, nhưng tôi rất biết ơn Tạ Hữu Yên. Người như thế thì thơ được phổ nhạc hàng trăm bài là đúng quá, đâu có gì phải ngạc nhiên!

                                  

“Ông đồ” Vũ Đình Liên và bữa cơm nắm

Nhà thơ Vũ Đình Liên 

(1913-1996)

Nhà thơ Vũ Đình Liên, tác giả bài thơ Ông đồ bất tử, là nhà thơ sáng tác ít nhưng tên tuổi thì còn lại với nền thơ Việt. Ông cũng còn là dịch giả nổi tiếng thơ Charles Baudelaire, như có lần ông thổ lộ, thơ Baudelaire cứ ám ảnh ông không dứt, và ông cảm thấy mình có một duyên nợ nào đó với thơ của thi hào Pháp mà ông ngưỡng mộ từ những năm còn đi học. Tôi chỉ được gặp Vũ Đình Liên có một lần, nhưng nhớ mãi. Không phải nhớ vì ông đọc thơ hay có “show” trình diễn nào đặc biệt, mà nhớ vì được nhìn thấy ông ăn… cơm nắm. Không phải cơm nắm của các bà mẹ bà chị hay bán ở một số con phố Hà Nội những năm sau này, món cơm nắm thơm ngon ăn với muối vừng hay ruốc bông, chả quế… Mà cơm do chính nhà thơ nắm để mang ăn đường. Hình như dạo đó là khoảng năm 1981-1982 gì đó, tôi vào Sài Gòn để đi Bến Tre dự lễ kỷ niệm nhà thơ vĩ đại Nguyễn Đình Chiểu. Dạo ấy cả nước còn rất khó khăn, và phương tiện lưu thông mà các nhà thơ hay dùng là… xe đò, loại xe đò hạng bét không chỉ chở người mà còn chở kèm… heo. Heo được bỏ rọ chất lên trên nóc thùng xe, và từ đó, chúng tha hồ xả chất thải không lấy gì làm thơm tho xuống đầu cổ hành khách. Đúng là xe “hành khách”. Nhưng không còn bất cứ lựa chọn nào khác, nên các nhà thơ muốn du hành đành dùng phương tiện này vậy, dù mua vé không hề dễ. Buổi trưa hôm đó, mới tới nơi tập trung để chờ xe đón đi Bến Tre, tôi chợt thấy một ông già bước vào. Đó là một người già lành hiền, ăn mặc không còn có thể giản dị hơn, nhưng rõ ra là một trí thức “cũ”, nền nếp, với phong thái khiêm nhường nhưng đường hoàng. Khi được giới thiệu, tôi mới biết đó là nhà thơ Vũ Đình Liên. Ai trong chúng ta mà chẳng một lần nghe hay thuộc lòng bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên! Tôi rất hân hoan được chuyện trò với ông. Sau một hồi thăm hỏi chuyện trò, Vũ Đình Liên xin phép chúng tôi dùng cơm trưa. Cơm trưa? Tất cả chúng tôi có mặt ở đó đều đã ăn trưa, và xung quanh tịnh không có một hàng quán nào có thể phục vụ, dù là một bữa ăn trưa đơn giản nhất. Đang ngạc nhiên, thì nhà thơ Vũ Đình Liên bình thản lấy từ trong tay nải của mình một gói giấy báo. Ông xin phép ngồi một góc, sẽ sàng mở gói giấy. Trong đó là một gói lá chuối, màu lá mới ngả vàng. Ông lại sẽ sàng mở ra. Đó là một nắm cơm, một nắm cơm bình thường, gạo phiếu của mậu dịch. Kèm một gói nhỏ muối vừng. Chấm hết. Không thịt kho, ruốc bông ruốc hoa hay chả quế giò lụa gì sất! Tác giả Ông đồ ngồi ung dung ăn nắm cơm của mình đúng như cách ông đồ của ông “Bày mực tàu giấy đỏ/ Trên phố đông người qua…”. Tự nhiên, tôi cảm thấy mắt mình rân rấn ướt. Là tác giả bài thơ nổi tiếng qua nhiều thế hệ đó ư? Là nhà giáo nhà thơ mà chúng tôi đã học tác phẩm từ ngày còn cắp sách tới trường đó ư?... “Những người muôn năm cũ/ Hồn ở đâu bây giờ?...”. Bây giờ, khi nhớ lại cảnh nhà thơ Vũ Đình Liên ăn cơm nắm, tôi những muốn kêu lên bằng hai câu thơ ông như vậy!

Kể chuyện nhỏ này để nhớ lại một thời khốn khổ, với những con người nổi tiếng nhưng khốn khổ. Và đẹp. Đẹp trong cảnh nghèo khó. Tại sao không?   

 

Vũ Hữu Định và những bài thơ viết trong cơn say

Nhà thơ Vũ Hữu Định

(1942-1981)

Cố nhà thơ Vũ Hữu Định bình sinh là người rất dễ thương. Khi chưa có hơi men, anh làm việc rất năng động, nghĩ ra được nhiều việc hay để làm, và không phải là người chỉ biết ham chơi mà bỏ mặc vợ con. Nhưng khi có men hơi bị… nhiều, anh lại là một “tiểu Lý Bạch” say tít cung thang bất kể trời đất. Người ta hay nói Say không biết sợ, quá đúng! Bình thường, Vũ Hữu Định rất ngại khi phải tiếp xúc với những người thuộc “công quyền”, anh cũng rất sợ… cảnh sát. Nhưng khi say rồi thì… “Đi năm phút lại về chỗ cũ” là một câu thơ nổi tiếng trong một bài thơ nổi tiếng của Vũ Hữu Định mà Phạm Duy đã phổ nhạc “Anh khách lạ đi lên đi xuống/ May mà có em đời còn dễ thương” với lại “Em Pleiku má đỏ môi hồng…”, một câu thơ rất… bắt mắt. Sau giải phóng một năm, tôi được về trại sáng tác văn học quân khu 5 ở Đà Nẵng, và một trong những nhà thơ “trong thành” mà tôi gặp và chơi thân đầu tiên là Vũ Hữu Định. Khi đó Định vừa có bài thơ in trong quyển sách Mùa gặt tháng Tư do trại sáng tác Quân khu 5 xuất bản. Ấy là bài thơ “trình làng” đầu tiên của Vũ Hữu Định với văn học cách mạng. Anh có vẻ rất tự hào về bài thơ này, một bài thơ mà người đọc quen thơ Vũ Hữu Định nhận ra ngay chất giang hồ lãng tử vốn có rất đậm trong thơ anh trước giải phóng. Chỉ với bài thơ ấy thôi, Định đã có thể phấn khởi mà… say hết ngày này sang ngày khác. Dạo đó chúng tôi gồm một nhóm, gồm Thái Bá Lợi, Vũ Hữu Định, Đoàn Huy Giao, Nguyễn Phước Chinh và tôi hay chơi với nhau và cũng chúa hay bày đặt để kiếm tiền… uống rượu. Trong các cuộc thực hiện “kế hoạch” rượu, Vũ Hữu Định luôn là người hăng hái bậc nhất. Kiếm được chút tiền còm, chúng tôi kéo nhau tới quán, và ở đó, Định luôn là người say nhanh nhất. Say nhưng vẫn uống. Và sau khi “say mà vẫn uống” như thế, anh luôn chiếm giải quán quân là người… say lâu nhất. Nhớ có lần bọn tôi kiếm được ít tiền rủ nhau ra Huế chơi thăm bạn bè, đêm hôm trước đúng là chúng tôi hơi quá chén, nhưng cả nhóm đều tỉnh táo để sáng hôm sau ngồi tầu chợ ra Huế. Chỉ có Định là tuy có vẻ đã tỉnh, nhưng hình như vẫn… say. Anh cùng đi với chúng tôi, ở Huế hai ngày, gặp bao nhiêu là bạn bè văn nghệ Huế, uống tiếp hết bao nhiêu là rượu, mỗi cuộc như thế Định đều tham gia hăng hái, nhưng hình như anh chơi, uống, đi lại ở Huế trong trạng thái… say. Khi lên tầu chợ về lại Đà Nẵng, Định vẫn vui đùa cùng chúng tôi. Mấy anh em đều nghĩ Định đã tỉnh rượu, không có vấn đề gì, nhưng khi về tới Đà Nẵng, ngủ một đêm rồi, sáng hôm sau gặp lại uống cà phê, chợt chúng tôi… sững người khi nghe Vũ Hữu Định nói: Hình như anh em mình vừa đi Huế về? Trời ơi, còn “hình như” gì nữa, rõ ràng mấy anh em, có Định, đi Huế chơi hai ngày về cơ mà! Định cười có vẻ bối rối: Thế mà tao cứ tưởng anh em mình vẫn ở Đà Nẵng! Thì đúng là anh em mình đang ở Đà Nẵng, nhưng mình mới đi Huế về mà! Định tỏ ra bối rối: Thật vậy à? Mình mới đi Huế về thật à? Vậy mà tao chả nhớ gì cả… Thì ra, trong suốt hai ngày đi và ở Huế, Định vẫn vui chơi hoạt động trong trạng thái… say. Say như thế thì thuộc hàng “say có thương hiệu” ấy chứ! Đúng là nhiều người e ngại anh say, nhưng với Vũ Hữu Định, tôi bảo đảm với bạn là anh say nhưng vẫn… như tỉnh. Và đặc biệt anh không hề quậy phá gì cả. Lạ thật đấy! Nhờ cái trạng thái “tỉnh say, say tỉnh” như thế mà Vũ Hữu Định sáng tác được nhiều bài thơ hay, trong đó có những bài thơ đầy cảm giác và cũng đầy dự báo về chính số phận của mình. Nhà thơ, trên khắp thế giới này, đều là một loại người luôn có cái gì đó hơi kỳ kỳ, không giống ai về một nét nào đó, dù họ cũng sống như tất cả mọi người. Vũ Hữu Định là một nhà thơ như thế.

Chơi với Vũ Hữu Định được mấy năm thì anh mất. Anh qua đời khi tôi đã về Qui Nhơn. Nghe anh em bạn văn nghệ Đà Nẵng kể, cái chết của Vũ Hữu Định cũng rất lạ. Khoảng 3 giờ sáng, sau khi uống rượu ở nhà một người bạn trên gác hai, Định ra về. Nhưng anh không xuống cầu thang để về mà bước ra ban công, rồi bước thẳng... vào khoảng không. Ngay từ tầng hai. Anh bị chấn thương và qua đời ngay lúc ấy. Gần như vẫn trong trạng thái “say-tỉnh” rất đặc trưng của anh. Trước đó, Định đã có bài thơ viết ở tuổi 40, như một bản “tự kiểm” đời mình. Bài thơ rất cảm động, nghe có giọng Đỗ Phủ trong những câu thơ của một nhà thơ Việt.

Sau này chúng tôi, những bạn bè của Định mỗi khi gặp nhau nhắc tới anh thường vẫn nhắc nhớ về những cơn say đặc biệt của anh. Không ai cho say rượu là tốt, nhưng người hay say như Vũ Hữu Định lại được bạn bè nhớ những nét đẹp của mình qua những... cơn say. Khi đó con người bộc lộ mình một cách thật thà nhất. Vũ Hữu Định “đẹp khi say” bởi anh vốn là người dễ thương, người tốt. Và là người có những bài thơ hay. Nhiều bài thơ trong đó lại được anh viết trong... cơn say…

(còn nữa)

Nguồn Văn nghệ số 12/2020


Có thể bạn quan tâm