March 29, 2024, 6:22 pm

Cuộc chiến không kiểm duyệt đầu tiên và cuối cùng

Chụp ảnh trong bối cảnh chiến tranh chưa bao giờ là lựa chọn dễ dàng, ngay cả khi giữa thời hiện đại, công nghệ đủ đầy, thì việc các nhà báo ảnh, các nhiếp ảnh gia nghệ thuật muốn khai thác đề tài chiến tranh như một thách thức hay một thôi thúc mãnh liệt của lịch sử cũng không phải là chuyện muốn hay không, có thể hay không thể. Những cuộc chiến tranh ở thế kỷ 21 đã và vẫn đang diễn ra, và người ta chưa thể chắc chắn được những nguồn tin đáng tin cậy về những sự thật. Con người nhỏ bé nhường nào, chiến tranh tàn khốc, mất mát bao nhiêu, vẫn cần có những hình ảnh trung thực nhất ghi lại, không phải thứ hình ảnh sắp đặt có chủ ý, hay sự chỉnh sửa lắp ghép. Và làm được điều này chỉ có thể là những nhiếp ảnh gia dũng cảm nhất. Câu chuyện về việc các phóng viên ảnh tác nghiệp trong chiến tranh Việt Nam vẫn còn là đề tài được người ta trân trọng nhắc đến, cho thấy một cái nhìn khách quan và bi tráng nhất.

Vào ngày 10 tháng 6 năm 1963, Malcolm Browne, trưởng văn phòng AP tại Sài Gòn, nhận được một cuộc gọi báo cho ông về một buổi lễ tưởng niệm vào sáng hôm sau. “Tôi thực sự khuyên ông nên đến,” một giọng nói, “Tôi mong đợi một điều gì đó rất quan trọng sẽ xảy ra, nhưng tôi không thể nói cho ông biết điều gì”.

Sáng 11/6, lễ rước Phật với hơn 350 tăng ni đã diễn ra. Browne ở đó và có lẽ không bao giờ tưởng tượng được rằng một trong những nhà sư, Thích Quảng Đức, lại lặng lẽ ngồi trong thế kiết già và tự thiêu ngay giữa ngã tư. Trong vòng mười lăm giờ, bức ảnh của Browne về nhà sư đang bốc cháy đã được đăng trên tất cả các tờ báo lớn.

Ảnh hưởng của hình ảnh này ngay lập tức lan rộng: chính quyền Kennedy phải xem xét, đánh giá lại chính sách của mình đối với Việt Nam bằng cách tăng quân số trong nước. Phần còn lại, như chúng tôi nói, là lịch sử.

Trong The Camera at War, Jorge Lewinski lưu ý rằng “Cho đến nay, về mức độ bao phủ của bức ảnh, chưa bao giờ, và có lẽ sẽ không bao giờ có một cuộc chiến tranh khác như Việt Nam”. Lewinski không chỉ đề cập đến số lượng các nhiếp ảnh gia và phóng viên trên mặt đất, mà đặc biệt hơn, là sự tự do chưa từng có của họ - và không bao giờ được cho phép nữa.

Nhiếp ảnh gia người Úc gốc Anh Tim Page đã xác nhận điều này trong một cuộc phỏng vấn vào năm 2019: “Việt Nam là cuộc chiến đầu tiên và cuối cùng mà không có sự kiểm duyệt nào”.

Đối với một số nhiếp ảnh gia, việc tìm kiếm những hình ảnh đẫm máu và bạo lực gần như trở thành một thách thức. Đối với những người khác, Philip Jones Griffiths trên hết, việc ghi lại những nỗi kinh hoàng của Việt Nam đã mở rộng mục đích của họ để tiết lộ sự vô ích của chiến tranh và những hậu quả vĩnh viễn của nó.

Bức ảnh chụp nhà sư Thích Quảng Đức của Malcolm Browne ngày 11/6/1963

Những bức ảnh về Chiến tranh Việt Nam đưa người xem đối diện với những khía cạnh chưa từng thấy của một cuộc xung đột trước đây. Cái chết không hề được che giấu, tô điểm, hay ăn mừng. Đôi mắt trũng sâu của những người lính thể hiện sự sợ hãi; vết thương của họ nói lên sự yếu đuối của con người. Địa ngục trở thành hiện thực dưới dạng những khu rừng bất khả xâm phạm tràn ngập những kẻ thù không thể nhìn thấy hoặc như những gốc cây bị đốt cháy không có khả năng bảo vệ. Phụ nữ và trẻ em la hét khi da của họ tan ra dưới tác dụng của bom napalm, chất độc da cam và phốt pho trắng.

Nhiều bức ảnh được chụp trong chiến tranh đã trở thành biểu tượng. Điều này xảy ra không chỉ vì khả năng kỹ thuật của các nhiếp ảnh gia mà bởi vì mỗi hình ảnh của họ đã tạo ra một vết lõm trong nhận thức của người dân về cuộc chiến.

Chưa bao giờ công chúng được chứng kiến ​​khoảnh khắc một người đàn ông vừa sống vừa chết (Eddie Adams, Tướng Việt Nam xử tử Việt Cộng, 1968) hay tác động của bom napalm lên thi thể trẻ em (Nick Ut, The Terror of War/ Cô gái Napalm, 1972). Vì tất cả những hình ảnh này, dư luận quay lưng lại với sự can dự của Hoa Kỳ vào Việt Nam và bắt đầu gây áp lực buộc chính phủ phải chấm dứt chiến tranh. Còn các nhiếp ảnh gia Việt Nam thì sao? Họ không có sự xa xỉ của phim không giới hạn cũng như thiết bị hiện đại - họ chủ yếu có ống kính 50mm hoặc máy ảnh Kodak nặng những năm 1940 - nhưng chất lượng và ý nghĩa của hình ảnh của họ là đặc biệt.

 “Chúng tôi có số lượng phim rất hạn chế đã được phân phối qua tờ báo của chúng tôi”. Nguyễn Đình Hự giải thích trong Một Việt Nam khác, “Đối với chúng tôi, một bức ảnh giống như một viên đạn”. Bố cục và chủ thể của nhiều bức ảnh của họ cho thấy ảnh hưởng của chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa và do đó là mục đích tuyên truyền.

Thanh niên Tiền phong lắp ống dẫn nhiên liệu trên Đường mòn HCM, 1974. Ảnh Vương Khánh Hồng

Một nhiếp ảnh gia khác, Vương Khánh Hồng, kể lại cách những bức ảnh được treo trong rừng để thúc đẩy tinh thần của những người lính. Trong khi nhiếp ảnh đang làm xói mòn động lực ở phía người Mỹ, thì ở phía bên kia, nó lại tiếp thêm niềm tin và hy vọng.

Báo chí phải trả giá đắt cho chiến tranh Việt Nam. Ước tính có hơn 130 nhiếp ảnh gia từ khắp nơi trên thế giới đã bỏ mạng tại nơi này. Robert Capa giẫm phải mìn năm 1954. Dickie Chapelle là nữ phóng viên đầu tiên qua đời ở Việt Nam năm 1965. Dana Stone và Sean Flynn mất tích trong rừng vào năm 1970. Một năm sau, Henri Huet, Larry Burrows, và Keizaburo Shimamoto qua đời khi trực thăng của họ bị pháo phòng không Bắc Việt bắn hạ.

Những gì các phóng viên này để lại cho chúng tôi là cảnh cửa mở vào bản chất của con người, sự tàn bạo của nó, nhưng cũng là quyết tâm tìm kiếm hy vọng ngay cả trong những ngày đen tối nhất.

An Cư (Lược dịch từ artandobject.com)

Nguồn Văn nghệ số 40/2022


Có thể bạn quan tâm