April 26, 2024, 2:22 am

Chúng tôi mắc nợ Việt Nam!

Sau chiến tranh Việt Nam có một lĩnh vực văn học mà chúng ta nói đến một cách quá khiêm tốn, được gọi là “văn học hàn gắn vết thương”, cụ thể nói về mối quan hệ Việt - Mỹ. Kể từ khi kết thúc chiến tranh đến nay, mối quan hệ có chiều sâu nhất, quan trọng nhất và có hiệu quả nhất giữa Hội Nhà văn Việt Nam và các nhà văn quốc tế là mối quan hệ giữa các nhà văn mặc áo lính Việt Nam và các nhà văn cựu binh Mỹ thông qua Viện William Joiner của đại học Massachusetts. Do một số lý do khách quan, mối quan hệ hợp tác của Hội Nhà văn Việt Nam và các nhà văn cựu binh Mỹ bị chùng xuống trong mấy năm gần đây. Giờ đây, Hội Nhà văn Việt Nam và các thành viên kỳ cựu của Viện William Joiner - những nhà văn tên tuổi của nước Mỹ - đang tìm cách để thúc đẩy một giai đoạn mới trong hợp tác đặc biệt là dịch thuật được phát triển tốt hơn…

Khi nói về Việt Nam và các nhà văn Việt Nam mà ông đã gặp gỡ và làm việc, nhà thơ cựu binh Mỹ Kevin Bowen viết : “Điều đã thay đổi nhiều nhất qua năm tháng, tôi nghĩ đó là sự thay đổi trong cách tôi cảm nhận Việt Nam, từ một nơi của chiến tranh và những người lạ nguy hiểm trở thành một nơi giống như ngôi nhà thứ hai, nơi có bạn bè và gia đình, nơi khích lệ và nuôi dưỡng tinh thần.

May mắn là tôi có nhiều bạn bè. Và chúng tôi có Việt Nam. Trong nhiều năm, những chuyến đi của các nhà văn Việt Nam tới Mỹ mang ý nghĩa “hồi phục” cho chúng tôi rất lớn. Nhìn thấy bạn bè, cùng nghe nhạc, nghe thơ ở sân sau, thăm đền chùa, thắp hương, nhìn thấy con của những người bạn lớn lên. Việt Nam đã trở nên một nơi giống như để hành hương. Tôi không chắc là chúng tôi tìm kiếm cái gì.

Có thể là sự hiểu nhau. Hòa Bình. Tình yêu. Sự mở mắt. Chúng tôi mắc nợ Việt Nam và các nhà văn của họ rất nhiều. Sự rộng lượng của họ luôn làm tôi kinh ngạc. Sự dũng cảm, cởi mở, kiên nhẫn, tử tế luôn là nền tảng cho sự hợp tác của chúng tôi”.

Văn nghệ xin trân trọng giới thiệu một số bài thơ của các nhà thơ cựu binh Mỹ viết về Việt Nam.

 

Fred Marchant

Bức ảnh chụp chung

ở Văn Miếu

 

1.

Nhà thơ ấy đã từng

Sống trên con đường lửa cháy

*

Người ca sỹ hiện lên giữa khói

Giữ chúng tôi ở lại

Người đòi cái chết trả lại những người bạn

Người hát những tình ca dang dở

Người nói với tôi bằng hơi thở:

      - để viết một cuốn sử

Anh hãy mở mắt nhìn thế giới

Và để tìm thơ

Anh phải nhìn bằng trái tim đau khổ

 

2.

Nhà thơ ấy hát những lời ru của mẹ

*

Anh mang đến cho chúng tôi

Hoa hồng, nho tươi và những bài hát

Và một ca sỹ

Mang giọng của những bà mẹ

Thẳm sâu trong núi rừng phương Bắc

Mênh mông trên cánh đồng phía Đông

 

Những câu hát dịu dàng chảy mãi

Trong đêm dài và sâu

Từ đó vọng lên những tháng năm khốc liệt

Anh sống dưới mái tăng căng dọc đường mòn

 

3.

Nhà thơ ấy sống trong rừng phi lao ven biển

*

Khi chúng tôi đi qua chiếc cầu

Sau chiến tranh chưa kịp sửa

Chúng tôi bỗng nghe tiếng trống

Vọng về, đôi mắt rưng rưng

Và nhà thơ ấy biết

Những nguồn nước con sông sinh tự nơi nào

 

Nhà thơ ấy biết những ngọn đèn

Thao thức trên thuyền như hồn người

                                                                không ngủ

Nhà thơ ấy thì thầm những gì anh thấu cảm

Anh có những nỗi niềm đau trong ngực

                                                                     chúng tôi

 

4.

Nhà thơ ấy đặt chúng tôi vào trong cơn bão

*

Anh dẫn chúng tôi đến ngôi nhà đá

Quanh chúng tôi những lồng chứa tê tê và nhím

Quanh chúng tôi lươn, cá đang bơi

Quanh chúng tôi cua giơ càng bò hối hả

 

Và khi vầng trăng tái đỏ

Đi qua miệng vực

Anh nói: chúng ta phải đứng dậy

Chỉ để lại những ngôn từ rực sáng ở phía sau

 

5.

Nhà thơ ấy đưa chúng tôi về phía bên kia

 

*

Anh chỉ cho chúng tôi hươu sừng đen của núi

Anh chỉ cho chúng tôi những nghĩa trang

                                                                        im lặng

Nơi nằm lại những nhà thơ của núi, của rừng

Anh chỉ cho chúng tôi sen hồng trong những

                                                                 hố bom xưa

“Đấy thiên nhiên, thiên nhiên diệu kỳ, bạn ơi hãy viết”

 

6.

Nhà thơ ấy có lần trong hố bom sâu

Đã chạm vào cái chết

 

*

Chị ôm người bạn

Và đôi mắt bạn mình

Chỉ còn là hai hốc tối mênh mông

Chị dùng mọi ngôn từ còn lại

Kể những chuyện chị nghe từ thuở chín, mười

Như thế người yêu trong vòng tay chị

Như thế là đứa con của chị

Như thể bầu trời chứa đầy cái chốt

Xé nát lá xanh trên đầu

Tất cả đã thành thơ

 

7.

Chúng tôi là những kẻ

May mắn trong cuộc đời

Được sống giữa những nhà thơ ấy

Họ vẫn sống, vẫn khoan thai

Vẫn chiến đấu không nguôi với những ngôn từ

Tuyết Ngân dịch

 

 

 

Yusef Komunyakaa

Con thuyền thơ

 

Con thuyền đã trét hắc ín với nhựa sơn cánh kiến hoàn toàn không thấm nước, xoay bông bênh trên dòng triều dạt, nhẹ nhõm như một người đàn bà đang yêu. Lại chống sào đẩy ra, rẽ lối qua bao sen nở, bùn lắng, nỗi hổ ngươi day dứt, bóng tối không buông tha. Với nửa bộ rễ hay nửa trái tim thì bất cứ thứ gì cũng có thể mọc lên trong cái đầm lớn này.

 

Có nhịp sào chống vào phía những thứ lẩn ánh ngày, toàn những thứ gây đau. Trong bình minh, bóng của người hái hoa trải ra trên nước, biên đạo cho một nhạc cụ chơi cho những thần những quái của vương quốc âm u phía dưới. Những bông hoa nở nghiêng vào bàn tay nhanh nhẹn của anh, như thể chúng lưng chừng tự bứt, tuân theo qui luật nào đó.

 

Chậm rãi, ánh sáng hùng biện cắt giữa đêm và ngày, giống như những người tắm trần truồng đang ghì ôm. Con thuyền đằm sâu hơn, cách dễ dàng như con bọ nước. Theo những cử động trôi chảy của anh, tôi biết, không còn nữa cái bóng kẻ ném bom nào trên mặt nước, lướt đi như một giấc mơ về cái chết. Bí ẩn mọc lên từ sự thối rữa của những vật chết - mỗi bông hoa nở một cái hôn từ cõi bất tri.

 

Tôi đứng trên những bậc thềm Nhà Khách Tây Hồ Hà Nội, cảm thấy mình bị dõi nhìn như tôi đang trân trối nhìn anh chàng chống thuyền kia, chẳng thể hành xử cứ như chỉ còn hai chúng ta trên cõi đời này. Anh vững vàng trên con thuyền Thần Mặt Trời của anh, ngoặt trái ngoặt phải, xuyên qua và vượt khỏi, như thể ngày là một người đàn bà anh sẽ kéo vào vòng tay.

 Nguyễn Chí Hoan dịch

 

Martha Collins

Ánh sáng mới

 

Ngày đầu ấy, chị hít đầy ánh sáng,

cách chị từng hít không khí, ngày nào,

 

bởi vì có ánh sáng, con đường dài thăm thẳm

xa nhà, không khí ấm, vị mát lành

 

lê, đu đủ, xoài, nho;

có lũ con gái, và bọn con trai,

 

thậm chí cả cái chết, nghĩa là,

họ gặp một tang lễ ngang qua

 

hôm ấy, một điềm lành. Ánh sáng

giống ánh sáng vẫn hắt xuống dòng sông

 

quê nhà, nơi vườn táo mọc trong giá lạnh

chị hít đầy ánh sáng bởi vì:

 

ánh sáng trên sông vẫn chính là ánh sáng

cách nửa vòng bên kia thế giới, vẫn là

                                                                   thế giới này.

Ngô Tự Lập dịch

Bruce Weigl

Lời thơ tặng Mẹ

Nguyễn Thị Vẻ

Viết thay cho Nguyễn Thị Hạnh Weigl

 

Được sinh ra trong văn hóa lúa Hà Nam

đầu tiên là đất

thứ hai là nước

thứ ba là những ngày dài còng lưng dưới

                                                                         mặt trời

thứ tư là thóc giống

như cuộc đời Mẹ đã bắt đầu

dưới bầu trời vần vũ của chiến tranh

 

Rồi Mẹ như cây mạ

sẵn sàng cho số phận bứng lên

từ mảnh ruộng Mẹ đã được gieo

để lại được cấy xuống

trong hàng hàng những người sống sót

Mẹ vươn lên từ bùn, Mẹ vươn lên trong bão táp

 

Dậy thì khi lúa trổ đòng

bóng tối hậm hực muốn nhấn chìm vẻ đẹp

Mẹ vẫn rì rào xanh mướt xanh

tự do chảy qua những cánh đồng

rễ bám đất cưu mang đòng nặng hạt

 

Khi lúa chín, Mẹ hái gặt điều thiêng liêng nhất

                                  của đời mình bằng tiếng hát

bằng yêu thương sâu thẳm trong tim

bằng nước mắt, tiếng cười ngày làm mẹ

 

Nhưng - số phận chia lìa hai ngả

Mẹ lặng lẽ gặt mình thành gốc rạ

cô liêu trên đồng trống tái màu

 

Giờ đây Mẹ trở về thóc giống

để chúng con cùng nâng niu, cất giữ, gieo trồng

để những hạt-gạo-Mẹ chúng con ăn vào cơ thể

lại trổ đòng

lại xanh mướt xanh.

Nguyễn Phan Quế Mai dịch

 

Kevin Bowen

Chơi bóng rổ với

Việt Cộng

Tặng Nguyễn Quang Sáng

 

Một chiều xa trong chiến tranh

Khi chúng ta đang rạp mình phục kích

Những người đàn ông, đàn bà

Kẻ thù của chúng ta và trâu bò của họ

Hòa lẫn vào cây cỏ đất đai

 

Lúc đó chúng ta chẳng bao giờ nghĩ tới

Người đàn ông tóc hoa râm đi dép

Chiều nay đến ngồi dưới mái nhà ta

Hút thuốc lá Gô-loa

Và uống bia nhãn Mỹ

Cơn ho chiều cắt ngang câu chuyện

Khi ông kể về một ngày kháng chiến

Năm 1954

Ông đã làm ra sao để đánh lừa lính Pháp

 

Giờ ông đến gõ cửa nhà ta

Gọi chúng ta ra sân chơi vài đường bóng rổ

Sau một hồi ông vụng về, bỡ ngỡ

Những đường bóng gọn gàng tới đích đẹp

                                                                        làm sao

 

Ông nâng chân trái lên

Hai cánh tay lượn từ sau ra trước

Quả bóng bay theo quỹ đạo cầu vồng

Một, hai, ba... rồi mười lần trúng đích.

 

Chúng ta đứng nhìn ông im lặng

Quần soóc, áo phông, dép, tóc hoa râm

Ông nhìn chúng ta mỉm cười

Đó là món quà để con người hạ súng

Như ông đã cười bên chín nhánh Cửu Long

Và ở những nơi khác nữa chúng ta nghe

Lời ông thì thầm như thở

Còn có thể thắng thêm vài quả nữa.

 

Trà sen

Tặng Vũ Tú Nam

 

Đêm qua ở Hà Nội.

Bên ngoài câu lạc bộ V.I.P,

Những chiếc ô tô xếp hàng.

Những chiếc đèn mầu cam rực rỡ

Thắp sáng lối vào.

Ba đêm đã qua

Và giờ những người đàn ông và

Đàn bà đầu tiên đi qua

Những người đạp xích lô và gái điếm

Bên công viên.

 

Mắc kẹt trong

Một nhà hàng hẹp, đôi bàn tay

Lớn của ông mở ra, ông diễn tả

Cách thức những chiếc búp chè được đặt vào

Những cánh hoa sen trong đêm như thế nào,

Buổi sáng lấy ra,

Những hạt sương rơi ra lả tả.

Khi những bông hoa bừng nở vào sáng

                                                                      hôm sau.

 

Đêm nay, đêm trà sen.

Ngày mai, Rằm tháng Tám.

Làm thế nào để nói lời tạm biệt.

- Mộ của ông nội vợ tôi nằm ở Huế

Ông thì thầm

- Và được chôn cạnh Phan Bội Châu.

 

Và khuôn mặt ông ẩn hiện trong hương trà

Như một dòng sông lộng lẫy đang trôi.

Ngân Phương dịch

Nguồn Văn nghệ số 42/2021


Có thể bạn quan tâm