March 28, 2024, 11:06 pm

Hát Bội “làm tội” người ta

Hát bội được xem là viên ngọc quý trong kho tàng nghệ thuật Việt Nam. “Hát bội làm tội người ta/ Đàn ông bỏ vợ, đàn bà bỏ con…”. Tuy câu ca đó truyền tụng trong dân gian nhắc nhớ về một thời “lừng lẫy” của nghệ thuật hát bội, nhưng ngày nay dường như đã quá xa xôi…

 

Một cảnh trong "Hồ nguyệt cô hóa cáo" do một gánh hát bội gia truyền 5 đời ở tỉnh Vĩnh Long thể hiện                                             Ảnh: ĐĂNG HUỲNH

 

TỪ CUNG ĐÌNH ĐẾN CHỐN DÂN GIAN

Theo nhiều tài liệu ghi lại thì hát bội (còn gọi là hát bộ, hát tuồng) xuất hiện vào khoảng cuối thế kỷ XII khi nhà Trần đánh bại quân xâm lược Nguyên – Mông và bắt được nhiều tù binh, trong đó có những con hát đi theo phục vụ quân đội mà nổi tiếng nhất là Lý Nguyên Cát. Vua Trần giữ những người này lại để múa hát giúp vui trong cung, đồng thời để họ truyền dạy lối hát đang thịnh hành ở triều Nguyên cho ta, gọi là hát bội. Thực tế, chúng ta chỉ học hỏi cách vẽ mặt, y trang, bổ sung những điệu hát mới nhằm nhuận sắc cho nghệ thuật múa hát theo tuồng tích đã có từ trước đó. Không chỉ là trò giải trí chốn cung đình, hát bội nhanh chóng lan tỏa khắp thôn quê, được người dân vô cùng yêu thích.

“Cái tên hát bội xuất phát từ việc người xưa thấy các diễn viên phải bội (đắp, gắn thêm) lên người cờ phướn, mũ mão cầu kỳ. Nhưng trong cung đình thời xưa kiêng kỵ từ “bội” vì nó có trong từ bội ơn, bội nghĩa nên đổi “bội” thành “bộ”. Từ đó, nghệ thuật hát bội còn có tên là hát bộ, tức chỉ các diễn viên hát phải kèm các cử chỉ, điệu bộ để lột tả vai diễn… Điều đặc biệt nhất và gần như là điểm để nhận biết, phân biệt hát bội với các nghệ thuật khác đó là việc diễn viên mang trên người các trang phục, trang sức và trang điểm vô cùng cầu kỳ. Cách trang điểm, tô vẽ trên gương mặt, từ hình dáng đến mầu sắc, cả trang phục, điệu bộ, cử chỉ đều được quy định rõ ràng. Người xem chỉ cần nhìn vào nhân vật là có thể biết được diễn viên diễn vai gì.” (Theo tác giả Quân Nguyễn – ADAM Music).

Nhắc tới hát bội thì phải nhắc đến những cái tên Đào Duy Từ, Đào Tấn. Đào Duy Từ (1572-1634) là người có công đầu trong việc phổ biến và phát triển nghệ thuật hát bội ở Đàng Trong. Được sự khuyến khích của chính quyền chúa Nguyễn, hát bội phát triển đến độ hoàn thiện về nghệ thuật trình diễn và ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống người dân. Miền Trung được xem là “đất tuồng” cũng là vì thế. Còn Đào Tấn (1845-1907) là người đưa hát bội trở thành nghệ thuật hàn lâm khi chú trọng phát triển theo hướng văn chương bác học, chỉ dành cho những trí thức cung đình. Ông được xem là người đã đưa hát bội lên đến đỉnh cao về nghệ thuật cũng như văn chương.

Càng đi về phía Nam thì hát bội càng “bén rễ” trong dân gian. Là người say mê hát bội, Tả quân Lê Văn Duyệt (1764-1832) đã đưa hát bội vào Nam cùng mình. Với tâm tình phóng khoáng, không quan niệm hát bội chỉ dành cho giới trí thức, thượng lưu, đức Tả quân đã “trả” hát bội về cho dân gian. Rũ bỏ những kiểu cách, rườm rà, những lễ nghi đậm chất bác học cao siêu chốn cung đình, đồng thời tiếp thu những trình thức biểu diễn, âm nhạc của bộ phận người Hoa trên đất Nam bộ, cùng tinh thần cởi mở của miền đất mới, hát bội Nam bộ dần hình thành những đặc trưng riêng: mạnh mẽ, mầu sắc, náo nhiệt và vui tươi hơn.

Trong quá trình phát triển, nhiều lúc hát bội mất thế đứng ở chốn cung đình nhưng vẫn giữ được chỗ đứng trong dân gian. Đặc biệt ở Nam bộ, nơi có rất nhiều đình chùa, thì hát bội hầu thần linh mỗi lễ cúng kỳ yên đã là một phần không thể thiếu của nghi lễ cúng bái và đời sống tâm linh người dân đất phương Nam. Mỗi lễ cúng đình, cả làng vui như trẩy hội, người người nô nức đi xem hát bội. Một tuồng hát bội thường rất dài, phải chia thành nhiều đêm hát có lớp lang hẳn hoi, điển hình như tuồng San Hậu phải diễn 3 đêm mới hết chuyện. Vì thế mới có chuyện nhà nhà bỏ cả cơm nước, bỏ bê công việc chực chờ xem cho bằng trọn một tuồng hát bội. Đúng là “làm tội người ta…”!

 

HÁT BỘI HIỆN ĐẠI

Thập niên 80 thế kỷ XX, không chỉ tá túc ở những mái đình, len lỏi trên những chiếc ghe hát bội khắp miền sông nước, nghệ thuật này còn phát triển rộng trong đời sống. Ngay tại trung tâm như Tp. Hồ Chí Minh, hát bội cạnh tranh với cải lương, vé các suất hát đều bán hết trước một ngày. Nhưng đến nay, hát bội chỉ còn bám trụ được ở đình làng… NSƯT Ngọc Nga, nguyên Phó Giám đốc Nhà hát Nghệ thuật Hát bội Tp. Hồ Chí Minh chia sẻ: “Là một loại hình nghệ thuật truyền thống gắn với những ngôi chùa, mái đình, những lễ hội cúng kỳ yên, chừng nào vẫn còn đình chùa, những lễ hội truyền thống này thì hát bội vẫn còn. Tuy nhiên cái khó của hát bội hiện nay là thiếu hụt lớp người kế thừa và ngày càng trở nên xa lạ với giới trẻ”.

Ý thức được việc thiếu hụt thế hệ kế thừa, từ năm 2000, Nhà hát đã đào tạo được hơn mười gương mặt trẻ triển vọng. Nhưng để thực sự thay thế được các bậc đàn anh đàn chị đang dần “già hóa” thì vẫn cần thời gian đào luyện lâu dài, mà đấy vẫn là con số quá ít ỏi cho một lớp kế thừa.

Tình hình ở miền Trung, miền Bắc cũng không mấy khả quan hơn. Ngay “đất tuồng” Bình Định, Nhà hát Nghệ thuật Tuồng Đào Tấn cũng rất chật vật trong việc “giữ lửa nghề” cho nghệ sĩ khi chế độ đãi ngộ cho nghệ sĩ nghệ thuật truyền thống không bắt kịp nhu cầu đời sống. Mỗi năm Nhà hát đều lặn lội khắp nơi để tuyển chọn diễn viên, đào tạo lực lượng kế thừa, nhưng không phải lúc nào cũng gặp được “ngọc thô”. Nhiều khi phát hiện có những bạn trẻ thanh sắc đều rất tốt, rất có triển vọng, song họ lại không muốn theo nghề…

Hát bội hiện nay vẫn đang nỗ lực hết mình để tìm đến khán giả qua những cố gắng “trẻ hóa”. Ví như đơn giản Hán văn, chỉ dùng từ thuần Việt; diễn viên hát chất lượng, tiết chế tính rề rà, dài dòng của vũ đạo, đẩy nhanh tiết tấu vở diễn, sáng tác thêm nhạc nền… Những nỗ lực nhằm nâng cao chất lượng vở diễn đồng thời phù hợp với nhiều đối tượng khán giả. Sự đổi mới còn đến từ những vở tuồng mang đậm tính thể nghiệm như: Người cáo (một vở hát bội mặc… đồ Tây), hay Sinh vi tướng tử vi thần - vở hát không lời, chỉ kể câu chuyện cảm động về lòng yêu nước qua vũ đạo, diễn xuất, âm nhạc, âm thanh, ánh sáng. NSƯT – tác giả Hữu Danh bày tỏ: “Những đổi mới này đều thu được kết quả khả quan khi khán giả cũ chấp nhận, khán giả mới cũng thấy hứng thú, dễ hiểu. Chúng tôi đã tìm mọi cách để quảng bá loại hình này như đưa nó vào học đường, dựng sân khấu trên xe diễn ngay bên đường… và đã nhận được những phản hồi tích cực khi khán giả đến xem. Thấy hát bội cũng không quá “già cỗi” hay khó hiểu như nhiều người vẫn nghĩ…”.

Những năm gần đây, ngành du lịch quan tâm hơn đến việc giới thiệu nghệ thuật truyền thống Việt Nam đến du khách, nghệ thuật hát bội cũng có thêm cơ hội đến gần công chúng hiện đại, cũng là một hướng để tiếp tục thích nghi và phát triển trong thời đại mới. Đã qua rồi cái thời “hát bội làm tội người ta”, nhưng hát bội vẫn mãi là viên ngọc sáng trong kho tàng nghệ thuật dân tộc Việt Nam, rất cần được giữ gìn và phát triển!

Nguồn Văn nghệ số 12/2020


Có thể bạn quan tâm