April 20, 2024, 2:08 pm

Du miền ký ức

Cách đây đúng 40 năm, vào ngày 17/2/1979, tiếng súng đã vang lên khắp bầu trời 6 tỉnh biên giới phía Bắc, mở đầu cho cuộc chiến tranh giữ nước tuy ngắn ngủi nhưng không kém phần ác liệt của dân tộc, để chống lại chủ nghĩa bành tướng bá quyền phương Bắc, một cuộc chiến tranh không hề bất ngờ với bất kỳ người dân Việt Nam nào. Dân tộc Việt Nam sau ba phần tư thế kỷ đấu tranh giành độc lập với bao nhiêu mất mát, đau thương vừa thanh bình chưa được bao lâu đã buộc phải cầm súng chống lại những người láng giềng với dã tâm thôn tính mảnh đất còn chưa kịp tan hết khói bom, chưa kịp nguôi ngoai đi những máu xương vừa đổ xuống của mình. Và trong cuộc chiến tranh này, lại một lần nữa đau thương, mất mát, tàn khốc, đổ vỡ... đè nặng xuống đất nước, con người và tâm hồn Việt Nam, để đến hôm nay, mặc dù thời gian đã lùi xa đến 40 năm, một khoảng thời gian đủ để nhận diện, để trưởng thành, để khép lại và tha thứ, nhưng cứ đến những ngày này thì không một ai có thể lặng im. Khép lại quá khứ để cùng hướng đến tương lai, đó là điều mà chúng ta đều hiểu. Nhưng khép lại khong có nghĩa là lãng quên, và quá khứ chỉ có thể khép lại trên cơ sở của sự sòng phẳng, và bằng thiện chí của tất cả mọi người. DU MIỀN KÝ ỨC là bài bút ký phần nào nói lên được điều ấy, bằng chính sự ra đời của nó, cùng với những gì mà nó đang chuyển tải  
Đăng ký lên đường nhập ngũ tháng 2/1979     Ảnh TL

1.

Khi tôi sinh ra, làng Đan Hà quê hương vốn hẻo lánh, dân số thưa thớt. May có con đường sắt Hà Nội - Lào Cai chạy qua được xây dựng xong năm 1906, thời kì Việt Nam thuộc Pháp. Cái năm đoàn tầu bị cháy khiến nhiều người thiệt mạng, rồi sau đó chiến tranh chống sự xâm lăng trở lại của quân Pháp lan rộng lên miền Việt Bắc (khoảng năm 1946), cũng là năm con đường sắt bị phá hoại, đứt khúc và nằm yên. Khi ấy, tôi mới được ba tuổi, còn bé xíu. Nhưng kí ức vẫn lưu lại hình ảnh con tầu đầu máy hơi nước, phun khói trắng khói đen đầy trời, uốn mình ậm ạch lượn qua khúc quanh trước cửa nhà. Tôi hỏi mẹ, con tầu ấy từ đâu tới và chạy tới đâu? Mẹ tôi, một người nông dân biết chữ chỉ đủ viết tên mình khi phải kí gì đó đáp rằng, nó đi từ nơi xa lắm và đến nơi cũng xa lắm lắm. Xa xa lắm là một bí ẩn, và tôi bỗng ước ao được đi xa và khám phá.

Cuối năm 1977 tôi có quyết định chuyển về công tác tại Tòa soạn báo Quân đội Nhân dân cho đến khi chuyển ngành năm 1989. Trong ngần ấy năm trời, với tư cách là phóng viên tôi đã có cơ hội đi rộng khắp đất nước và cả vùng Bán đảo Đông Dương. Và cho đến tận bây giờ tôi vẫn ham đi và vẫn mơ những chuyến đi. Có những nơi tôi đến, khi đi tự hẹn lòng nhất định sẽ trở lại, nhưng chẳng và chắc sẽ chẳng có dịp nào trở lại. Nhưng có những nơi tôi đã trở đi trở lại không ít lần. Tôi không nhớ hết những lần mình đã trở đi trở lại Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Cao Bằng, Lạng Sơn, Móng Cái (Quảng Ninh) và nhất là Hà Giang. Mới đây, trong năm 2018 và tháng 1 năm 2019 tôi đã đi một vòng cung Tây Bắc, đi Móng Cái, hai lần đi Hà Giang và Lạng Sơn. Một người bạn bảo, ông là kẻ ngộ du lịch. Tôi ngộ du lịch ư? Ồ, không. Ở tuổi này, tôi du miền kí ức.

Lên Biên giới     Ảnh TL

2.

Nửa đầu năm 2018, tôi bắt đầu trở về miền kí ức từ vòng cung Tây Bắc. Đây là một chuyến đi bè bạn với nhà văn Nguyễn Tham Thiện Kế, một cựu binh của sư đoàn 411, cùng nhà phê bình văn chương mạng Lại Đức Thành. Vòng cung Hòa Bình - Sơn La - Điện Biên - Lai Châu - Lào Cai gần như được làm mới hoàn toàn, không còn dấu vết ngày xưa chúng tôi đã đi trên chiếc xe Gát 69 ậm ạch, phải ngủ đỗ ở dọc đường. Chúng tôi đã đi qua thung lũng Mường Thanh có hầm đầu hàng của tướng Đờ Cát cùng với những đồi A, đồi C, đến viếng Nghĩa trang liệt sĩ Điện Biên, chìm đắm trong khói hương của lịch sử. Chúng tôi đi qua Mường Lay được xây lại sau những cơn lũ quét, đi qua Đồi Cao nơi xưa đóng cơ quan đầu não của tỉnh Lai Châu cũ (gồm Điện Biên và Lai Châu ngày nay). Ở nơi này, năm 1980, tôi đã dự Đại hội chiến sĩ thi đua của tỉnh Lai Châu, rồi theo xe chở các đại biểu địa phương đi Mường Tè, sau đó đi bộ lên đồn biên phòng Hua Bum, đi xuống các bản người dân tộc Hà Nhì. Con đường 127 ngày nay xe chạy thênh thang, đi từ thị trấn Mường Lay đến thị trấn Mường Tè dài khoảng 100 km dự là chỉ mấy hơn 2 giờ, nhưng ngày ấy từ đồi Cao lên Mường Tè chúng tôi phải đi mất hai ngày, chặng một Đồi Cao - Mường Mô, chặng hai Mường Mô - Mường Tè. Huyện đội Mường Tè phái một thiếu úy dẫn tôi lên Hua Bum. Ngày đó tiếng súng chiến tranh biên giới khu vực Lai Châu đã im, nhưng cuộc chiến ở những vùng khác vẫn còn dai dẳng. Tôi ngủ đêm ở nhà xã đội trưởng người Hà Nhì, ăn bữa cơm, uống rượu sắn với cá suối. Dân tộc Hà Nhì ở Việt Nam không nhiều chỉ khoảng trên dưới hai vạn, riêng Lai Châu cỡ ngót vạn tư. Người Hà Nhì sống tập trung ở châu Hồng Hà tự trị, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc. Tôi có một bạn thơ người Hà Nhì tên là Ge Bu, Chủ tịch Hội nhà văn châu Hồng Hà. Theo chỗ tôi biết Ge Bu là một trong số rất ít các nhà văn người dân tộc ở Trung Quốc vẫn sáng tác bằng ngôn ngữ của dân tộc mình. Tôi quen anh  trên chuyến tầu hỏa Hà Khẩu - Côn Minh, nhân cùng đi dự một hội nghị quốc tế ở thủ phủ tỉnh Vân Nam. Một vài năm sau, gặp lại nhau ở Nam Ninh, anh ôm lấy tôi xem như bạn cũ thân thiết. Năm ngoái anh sang Hà Nội nhận giải thưởng Văn học sông Mê Kông, anh cứ cầm tay mãi không rời. Anh nói anh yêu Việt Nam. Anh làm tôi nhớ lại cảm giác tin cậy khi ngủ đêm ở nhà xã đội trưởng người Hà Nhì xã Hua Bum, với những câu thơ rất Hà Nhì: Cứ mỗi khi chợp mắt/ Tôi lại thấy một con đường/ Cựa quậy lượn uốn ẩn hiện trong sương.

Nhà văn cựu binh Nguyễn Tham Thiện Kế, do có học vấn lại thêm giọng đọc ấm áp nên luôn được chính trị viên đại đội giao nhiêm vụ đọc báo Quân đội Nhân dân. Anh đọc và cảm nhận chứ không chỉ làm nhiệm vụ của một phát thanh viên. Anh bảo, khi bước chân rời khỏi ngôi nhà thân thương, dấn thân vào cuộc đời lính trận thì truyền thống đơn vị liền ngấm vào trở thành máu thịt của mình. Tây Bắc là vùng đất giống như chiếc nôi của sư đoàn 316. Những tên đất như Ma Ly Pho, Pa Nậm Cúm, Mù San, ngã ba Phong Thổ hay dốc đứng Pa Tần, Dào San… cứ được nhắc đi nhắc lại trong câu chuyện chiến đấu của trung đoàn 98 sư 316 sát cánh với trung đoàn 46 sư 326 thời chiến tranh biên giới tháng 2 năm 1979. Cuộc chiến xẩy ra bất ngờ đối với tất cả chúng tôi. Sự tráo trở và lắt léo của chính trị bị chi phối bởi những lợi ích đã biến bạn thành thù hoặc ngược lại chỉ trong một cái lật bàn tay. Chúng tôi nhắc lại những trận đánh giành và bảo vệ các cao điểm được đánh số trên bản đồ tác chiến 805, 551 hay 553. Xe tăng quân giặc tiến vào Phong Thổ ngày 17 tháng 12, nhưng đến ngày 3 tháng 3 chúng mới chiếm được thị trấn và ngày 5 tháng 3 mới chiếm được Dào San. Nguyễn Tham Thiện Kế hất ngược mái tóc bồng bềnh của anh, mắt tối lại nói, tôi bây giờ vẫn như nhìn thấy cảnh hỗn loạn của người dân chạy giặc, nhìn thấy những đồng đội của tôi ngã xuống trên chiến hào, trên con đường được thảm nhựa phẳng lì mà chúng ta đang đi đây, biết đâu vẫn còn hài cốt của liệt sĩ vô danh nằm sâu dưới đó.

Trong sổ tay phóng viên của tôi còn ghi: Ngày 17/2 quân đội Trung Quốc bắt đầu tấn công vào các điểm cao 1562 Mù San, 1112 Ma Ly Pho, Hoàng Thểm, Khao Chải, điểm cao 262… cùng một số vị trí khác do Trung đoàn 741 và 193, Tiểu đoàn 2 Sìn Hồ, đồn biên phòng Ma Lù Thàng, Si Lờ Lầu, A Pa Chải bảo vệ. Ngày 19-2 giặc tiến xuống ngã ba Nậm Cáy, Mô Sy Câu, ngã ba Pa So và bắc Pa Tần. Ta chống giữ được đến 24/2. Ngày 10-3, trên mặt trận Lai Châu, địch rút về bên kia biên giới chậm hơn bên phía Quảng Ninh 5 ngày.

Hình ảnh thị xã Cao Bằng bị quân Trung Quốc bắn phá tan hoang (Ảnh tư liệu Trần Mạnh Thường)
Nhà trẻ thị xã Cao Bằng chỉ còn là đống đổ nát. (Ảnh tư liệu Trần Mạnh Thường)

3.

Chúng tôi kết thúc chuyến đi vòng cung Tây Bắc ở Lào Cai. Thành phố đô thị loại 2 thành lập năm 2004, được sáp nhập từ thị xã Lào Cai và thị trấn Cam Đường mở rộng ra phía hữu ngạn sông Hồng, đón đường cao tốc từ Hà Nội lên. Ngày 5/3, khi Đặng Tiểu Bình tuyên bố rút quân, tôi được cử lên Lào Cai cùng các nhà báo Nguyễn Trần Thiết, Ngọc Thông, Vương Trí Nhàn. Ở hướng này, quân Trung Quốc tiến sâu xuống đến Phố Lu, cách Lào Cai hơn 30 km. Ở Phố Lu, mọi công sở bị phá sập. Mỏ aptit Cam Đường bị san phẳng, mọi thiết bị máy móc mới nhập từ Liên Xô về bị cướp sạch. Cầu sắt nối thị xã Lào Cai và Kim Tân bị đánh bay. Chúng tôi ngồi uống bia bên bờ sông Hồng. Nguyễn Tham Thiện Kế nhắc lại những trận chiến đấu của sư đoàn anh ở Sa Pa chặn giặc tiến xuống Bình Lư. Tôi kể cho Kế và Thành nghe chuyện tôi và nhà văn Hồng Diệu đi Mường Khương, quân báo ta bắt được một lính Trung Quốc tên Ngọc, chúng tôi đã tiếp xúc ra sao. Ngọc là một người lính có văn hóa, học hết cao trung (THPT), nói phản chiến nên chạy sang Việt Nam. Tôi không biết có nhiều lính Trung Quốc phản chiến không, nhưng tôi có đọc một tài liệu của Trung Quốc nói về một phi công Trung Quốc phản chiến. Người phi công này đóng ở sân bay Mông Tự, đã lập kế hoạch cướp máy bay, bay sang Việt Nam. Anh ta đã chiếm được máy bay, bay sang Việt Nam, bị đuổi rát, do thiếu xăng nên rơi xuống một vùng núi sát với biên giới nước ta. Nhà phê bình văn học mạng Lại Đức Thành, làm nghề kinh doanh tiền bạc, chưa trải qua chiến tranh, trầm ngâm. Anh nói, đối với nhân loại chiến tranh luôn luôn là thảm họa. Mục tiêu của chiến tranh xét cho cùng là giành giật quyền lực. Có quyền lực trong tay thì có quyền thống trị người dân. Cuối cùng người dân gánh đủ mọi sự.

Những suy ngẫm của Thành gợi cho tôi nhớ lại thời thơ ấu của mình, khi quân Pháp tấn công lên Phú Thọ, sư đoàn 312 về tổ chức trận địa phòng ngự ở quê tôi, mẹ đưa chúng tôi đi sâu vào rừng, gánh trên vai gạo muối, mấy đứa em còn nhỏ xíu, để tránh giặc, nhưng trận đánh lại xẩy ra ở Trạm Thản trên đoạn quốc lộ 2 thị xã Phú Thọ - Đoan Hùng. Mẹ đưa chúng tôi về nhà, miệng không ngớt lẩm bẩm, ơn Trời Phật, bom đạn đã tránh nhà con. Rồi mẹ bảo tôi, tội nghiệp cho những người không may bị mũi tên hòn đạn giết oan. Kế thấy chúng tôi trầm hẳn đi, bèn nâng cốc bia nói, nào chúc mừng hòa bình. Vâng, chúng ta chúc mừng hòa bình.

 

4.

Sau đó, bộ ba chúng tôi lại hành quân đi Hoàng Su Phì và Xín Mần, miền núi đất phía tây Hà Giang. Chuyến đi ấy, tôi viết bài thơ Tây Côn Lĩnh và đưa lên mạng. Đoạn kết như sau: Cổng trời mở ra một trời khác/ Ta đắm vào hương chạm tính người/ Chạm vào linh khí Tây Côn Lĩnh/ Muốn hát muôn trùng tổ quốc tôi. Tôi đưa bài thơ lên mạng. Một người em, gọi điện cho tôi, rủ rê, đi lại Hà Giang, lên Đồng Văn, Lũng Cú. Tôi liền đồng ý ngay. Cứ nói đến đi Hà Giang là tôi sẵn sàng. Trước khi nghỉ hưu, tôi đã sắp xếp một chuyến đi Hà Giang, nửa tháng trời. Hà Giang có gì làm tôi say mê? Miền cực bắc Tổ quốc, cao nguyên đá hùng vĩ, những giai thoại chợ tình, mùa tam giác mạch? Tất cả đều hấp dẫn. Nhưng Hà Giang làm cho tôi nắc nỏm, khắc khoải ấy chính là tôi đã gửi ở đó một phần tuổi trẻ của tôi.

Ngày 16/3/1979, Trung Quốc tuyên bố hoàn thành việc rút quân ra khỏi biên giới Việt Nam, nhưng cuộc chiến tranh biên giới đã diễn ra dai dẳng, kéo dài. Riêng Hà Giang, cuộc chiến tàn khốc, núi xương sông máu đến tận 1991 mới chấm dứt. Ngày đó đất nước vừa sống trong Hòa Bình, vừa có chiến tranh. Tôi đã làm nhiều chuyến công tác lên mặt trận Vị Xuyên, lên ngả Đồng Văn - Mèo Vạc. Ở Mèo Vạc chúng tôi đã vượt sông Nho Quế sang ba xã bên kia. Ở đấy tôi đã kết nghĩa với một thượng úy tiểu đoàn trưởng, và trong một lần ra chốt, tôi trèo lên bờ hào đã bị lính Trung Quốc nã sang một tràng súng 12,7 mm, đạn veo véo qua đầu. Tôi đã đi với các đơn vị công binh mở đường và đào hầm, đi lên đài quan sát pháo binh và rơi vào túi pháo khi bất ngờ cụm pháo giặc bắn sang. Theo một số thống kê, Trung Quốc bắn sang biên giới nước ta cỡ trên một triệu quả đạn pháo, thì riêng Vị Xuyên hứng chịu hơn tám mươi vạn. Mặt trận Vị Xuyên nhức nhối hơn mười năm. Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Hà Giang mới đây đã sưu tầm, cho in lại nhiều bài báo viết tại chiến trường, thơ ca và hồi kí của các tướng lĩnh và binh nhì, trong đó có bài thơ Bài hát đỏ của tôi, in báo ngày đó, nhưng do thời gian quá dài nên quên mất. Một lần đi lên Tuyên Quang cùng anh Hà Quang Dự, tôi có kể về nhân vật của bài thơ. Anh Dự nhận ra, người con gái đó là cháu anh, tốt nghiệp trường đoàn, đã tình nguyện lên mặt trận Vị Xuyên công tác.  

Phút nghỉ ngơi hiếm hoi của các chiến sĩ trên Mặt trận Vị Xuyên năm 1984. Ảnh tư liệu

Con đường lên Hà Giang bây giờ được sửa chữa, nâng cấp thảm nhựa phẳng lì, có thể đi thẳng từ Yên Minh lên Mèo Vạc. Thời chiến tranh, chưa có con đường này, chúng tôi phải đi lên Đồng Văn, ngược đỉnh Mã Pì Lèng, theo đường Hạnh Phúc mới mở như một kì quan, xuống Mèo Vạc. Đường Hạnh Phúc là kết tủa mồ hôi, công sức của hàng vạn thanh niên con em các dân tộc, bám vào các sườn núi đá, men theo dọc sông Nho Quế sâu hút và ngoằn ngòeo như một một sơi lanh, xuyên kết các ngọn núi, nhưng nằm trong tầm pháo cối của đám giặc phía bên kia. Dọc đường ngược lên cực bắc, những cánh đồng tam giác mạch được sự vun quén nghệ thuật của con người, tím hồng như những dải mây khoác lên các sườn núi, mời gọi. Khách lên Lũng Cú thi nhau chụp ảnh. Chiến tranh dường như đã lùi xa, đã là quá vãng. Nhưng với tôi thì không. Dường như loạt đạn 12,7mm vẫn vang bên tai.

Cuộc chiến tháng 2/1979, hướng Hà Tuyên là hướng phối hợp, địch không tiến công lớn mà chỉ sử dụng lực lượng biên phòng, dân binh tỉnh Vân Nam đánh vào các chốt của ta ở xã Thượng Phùng, Lũng Làn (Mèo Vạc), Lũng Cú, Ma Ly (Đồng Văn), Nghĩa Thuận (Quản Bạ), Thanh Thủy, Lao Chải (Vị Xuyên), Bản Păng, Bản Máy (Xìn Mần), Na Khê (Yên Minh). Nhưng đến ngày 4-3, để hỗ trợ cho các hướng chính Lạng Sơn, Hoàng Liên Sơn và Lai Châu, địch đẩy mạnh các hoạt động tiến công cấp đại đội, tiểu đoàn nhằm vào các đồn biên phòng và các xã biên giới. Ngày 8 và 9/3 chúng đánh Phó Bảng (Đồng Văn); ngày 11/3 tiến công khu vực Lao Chải (Vị Xuyên). Đến năm 1984, Trung quốc mở chiến dịch lấn chiếm biên giới Vị Xuyên với quy mô lớn, đánh chiếm các quả đồi từ bình độ 1800 ở phía tây đến bình độ 1200 ở phía đông mà họ gọi là Lão Sơn, tạo ra một “lò vôi thế kỉ”.

Ngày ấy, mỗi khi lên mặt trận, chúng tôi phải đi từ lúc 3 giờ sáng, xe chỉ được bật đèn gầm bò sao cho kịp đến làng Pinh trước khi mặt trời mọc. Nhưng người lính chốt giữ Vị Xuyên hàng tháng không cắt tóc, hàng năm không thấy một bóng thiếu nữ, làm ra một thứ chè chốt uống đầy dư vị và đắng ngắt lòng. Những cái chết vì mảnh đạn pháo, vì đạn bắn tỉa, vì mưa nhiều trượt đất, thật không kể xiết. Nghĩa trang liệt sĩ ở Vị Xuyên bia mộ trắng xóa như rừng. Năm 1999, sau khi Việt Nam và Trung quốc bình thường hóa quan hệ, tôi được cử tháp tùng một đoàn nhà văn Trung Quốc đi thăm đền Hùng, trong đó có lão nhà thơ Lưu Trương. Ông tặng tôi tập thơ tựa là Thơ cha và con, in mỗi người khoảng 30 bài, nói con ông bị thương ở mặt trận Lão Sơn. Tôi đọc phần thơ của con trai ông, thấy chủ yếu mô tả về cái chết, về những chiếc quan tài, về thời tiết khắc nghiệt. Tình cảnh của người lính ở đâu thì cũng vậy.

 

5.

Ngày 2/1/2019, chuyến đi mở đầu năm mới dương lịch, tôi đi với một đoàn nhà văn lên Lạng Sơn. Một chuyến đi kết thêm nhiều bạn mới. Nhưng phải nói ngay rằng, với Lạng Sơn tôi là một người cũ. Tôi nhập ngũ khi vừa kết thúc năm học lớp chín phổ thông mười năm, chính thức nhận quân hàm binh nhì ở Tiểu đoàn huấn luyện của Bộ đội không quân tại Cát Bi ngày 9/6/1961. Sau đó được đưa về Trường Hàng không Việt Nam chuẩn bị học lái trung cấp. Xong khóa huấn luyện tân binh, bất ngờ tôi được điều về Trường văn hóa quân đội của Bộ tổng tham mưu đặt ở thành cổ Lạng Sơn, học hếp lớp mười, rồi học tiếng Nga để đi học kĩ thuật quân sự ở Liên Xô. Ngày đó người ta gọi chúng tôi là lính cậu. Nhưng một số chúng tôi không đi học Liên Xô mà về sư đoàn 308 hoặc đi Hải quân để tiếp tục rèn luyện. Tôi về làm lính tiểu đội hỏa lực (ngày đó gọi là tiểu đội thượng liên) thuộc đại đội bẩy, tiểu đoàn tám, trung đoàn Thủ đô. Chúng tôi được huấn luyện các kĩ năng chiến đấu bộ binh rồi tham gia diễn tập “Trung đoàn phòng ngự trong điều kiện có nguyên tử nổ” ở Tiền Hải, Thái Bình. Rồi tôi sẽ có rất nhiều lần trở lại Lạng Sơn, trong đó có hai lần về trường văn hóa quân đội, thành thử cái thị xã ấy rất thân quen và gần gụi.

Thành cổ Lạng Sơn, cái nôi bồi dưỡng văn hóa cho các cán bộ chiến sĩ, nay đã thu nhỏ lại, không chỉ do thị xã tiến lên thành phố, mà do công năng của nó không còn như cũ nữa. Ngày 4/3/1979, khi quân xâm lược Trung Quốc tiến vào thị xã thì tôi đang ở một hướng khác. Không thể tin được rằng, quân Trung Quốc đã vượt sông Kỳ Cùng, đã chiếm sân bay Mai Pha, đã bắn chết nhà báo Nhật Bản Tacano.

Chiến sĩ cầm súng B.41 đứng bên cột mốc biên giới số 0 ở Lạng Sơn đã trở thành biểu tượng của cuộc chiến bảo vệ biên giới phía Bắc 1979 - Ảnh Trần Mạnh Thường

Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh Đoàn Thị Hậu bố trí để chúng tôi đi Tràng Định, Lộc Bình đi đến các đồn biên phòng Pò Mã và Chi Ma. Sư đoàn 437 phòng ngự ở Tràng Định, trong thế tựa lưng vào sông Kỳ Cùng, nghĩa trang của sư đoàn ghi danh đúng 437 liệt sĩ. Chốt biên phòng ở điểm cao 820 lập miếu thờ các liệt sĩ thuộc biên chế của đồn. Đêm lạnh 10 độ C nằm ở nhà khách ủy ban huyện nghe gió bắc rú rít, như nghe đội ngũ núi tuần tra đường biên, lòng không khỏi rợn sóng ngàn lau trắng, đọc một tin nhắn từ Lạng Sơn gửi lên, không khỏi rưng rưng. Đồn biên phòng Chi Ma trên chốt 840 cũng có dựng miếu thờ, 11 liệt sĩ rất trẻ tuổi đều 19, 20. Đứng trên chốt này nhìn thấy toàn cảnh thị trấn Ái Điếm (爱店) của Trung Quốc. Chi Ma được hai bên thương thảo đưa lên cấp cửa khẩu quốc gia. Mọi cơ sở vật chất kĩ thuật đã xây dựng xong, phía Trung Quốc cũng đã dựng hàng ngàn mét rào biên giới. Nhưng cửa khẩu chưa thông thương, còn phải chờ phía bên nước bạn. /.


Có thể bạn quan tâm